Thơ

xiv. Nhà Hậu Lê (Thời kỳ thống nhất: 1418 - 1526)

1. Lê Thái-Tổ phá giặc Minh

Mới hay cơ-tạo xoay vần,
Có khi bĩ-cực đến tuần thái-lai.
Thiếu chi hào-kiệt trong đời,
Non xanh nước bạc có người kinh-luân.
Lương-giang trời mở chân-nhân,
Vua Lê Thái-tổ ứng tuần mới ra.
Lam-sơn khởi-nghĩa từ nhà,
Phong-trần lắm lúc kể đà gian-nguy.
Lạc-xuyên đầu giết Mã-Kỳ,
Nghệ, Thanh một giải thu về bản-chương.
Chia quân kinh-lược mọi đường,
Hai kinh đã định, bốn phương cũng bình.
Vương-Thông bền giữ cô-thành.
Viện-binh hai đạo Bắc-đình tiếp sang.
Trời nam đã có chủ-trương,
Mà cơ chế-thắng miếu-đường cũng tinh.
Chi-lăng các đạo phục binh,
Liễu-Thăng, Mộc-Thạnh liều mình nẻo xa.
Vương-Thông thế túng cầu-hòa,
Quyền phong Trần-Cảo gọi là Quốc-vương.
Ngôi thiêng sao xứng tài thường.
Trần-Công trẫm-sát để nhường long-phi.

2. Nhà Lê kiến-quốc

Thuận-thiên niên-hiệu cải-đề,
Non sông mới thuộc về Lê từ rầy,
Quan-danh, quân-hiệu mới thay,
Bản-đồ đổi lại huyện này, phủ kia.
Dựng nhà học, mở khoa thi,
Triều-nghi, quốc-luật một kỳ giảng-tu
Mười năm khai-sáng cơ-đồ,
Sáu năm bình-trị qui mô cũng tường.
Thái-tông rộng mở khoa-trường,
Lập bia tiến-sĩ trọng đường tư-văn.
Chín năm noi nghiệp cơ-cần,
Viễn-di mến đức, cường-thần sợ uy.
Tuổi xanh hoang-túng nhiều bề,
Vườn xuân lắm lúc say-mê vì tình.
Đông-tuần về đến Bắc-ninh,
Riêng cùng Thị-Lộ quên mình bởi ai?
Nhân-tông tuổi mới lên hai,
Quyền trong mẫu-hậu, chính ngoài thần-công.
Mười năm một hội đại-đồng,
Văn-mô rạng trước, vũ-công phục ngoài.
Đánh Chiêm-thành, cằt Bí-cai,
Đổ-bàn, Cổ-lũy các nơi hướng tiền.

3. Lê-Nghi-Dân cướp ngôi

Diên-ninh vừa độ trung-niên,
Nhân-tông tuổi cả mới lên ngự trào.
Nghi-Dân cốt nhục nỡ nào,
Tiềm-mưu đêm bắc thang vào nội-cung
Mẹ con đương thủa giấc nồng,
Hồn tiên liều với gian-hùng một tay.
Nghi-Dân chuyên tiếm từ đây,
Lương-tâm đã dứt, ác-cai lại nồng.
Đình-thần nghị tội truất-phong,
Rước Gia-vương, ngự đền rồng cải-nguyên.

4. Thời-kỳ toàn-thịnh: Lê Thánh-Tông

Thánh-tông cốt-cách thần-tiên,
Lại thêm kinh thánh truyện hiền gia-công,
Quốc-âm, Đường-luật tinh-thông,
Thiên-văn, toán-pháp, binh-nhung cũng tường.
Tài cao-mại, đức thù-thường.
Kiến-văn đã rộng, thi-trương cũng già,
Ba năm lại mở một khoa,
Tân-hưng, đại-tị theo nhà Thành-Châu,
Nhạc-âm, lễ-chế giảng cầu,
Quan-danh, phục-sắc theo trào (triều) Đại-Minh.
Mở Quảng-nam, đặt Trấn-ninh
Đề-phong muôn dặm uy-linh ai bì.
Kỷ công núi có Đá-bia,
Thi-văn các tập ' Thần-khuê còn truyền.
Thừa-diêu lại có con hiền,
Hiến-tông nhân-thứ rạng nền tiền-huy.

5. Nhà Lê bắt đầu suy

Túc-tông số lẻ vận suy,
Để cho Uy-Mục thứ chi nối đời.
Đêm ngày tửu-sắc vui chơi,
Tin bè ngoại thích hại người từ-thân.
Văn-Lang xướng suất phủ-quân.
Thần-phù nối áng phong-trần một phương.
Giản-Tu cùng phái ngân-hoàng,
Vào Thanh hợp với Văn-Lang kết thề.
Đem binh vây bức đô-kỳ,
Quỷ-vương khuất mặt, quyền về Trư-vương.
Lại càng dâm-ngược kiêu-hoang.
Trăm gian, nghìn-nóc, cung-tường xa-hoa.
Lại càng bác-tước họ nhà.
Cành vàng lá-ngọc đều là điêu-linh.

6. Loạn Trần-Cảo và Trịnh Duy-Sản

Phương ngoài Trần-Cảo lộng-binh,
Mà trong Duy-Sản mống tình bạn-quân.
Đem binh vào cửa Bắc-thần,
Bích-câu một phút mông trần bởi ai.
Giềng Lê khi đã đổi dời,
Mặc tay Duy-Sản đặt người chủ-trương
Đã tôn con Mục-ý-vương,
Lại mưu phù-lập Chiêu-hoàng cớ sao?
Thị thành vừa lúc xôn-xao,
Lại đưa xa giá ruổi vào cõi Tây,
Lòng trời khử-tật mới haý,
Giết Duy-Sản lại mượn tay giặc Trần.
Tướng tài còn có Trần-Chân,
Nguyệt-giang chống với giặc Trần mấy phen
Ngụy Trần vào cứ Đồng-Nguyên,
Truyền ngôi con cả, cải nguyên Tuyên-hòa,
Cạo đầu vào cửa Thích-già,
Y-qui nương bóng Di-đà độ-thân.

7. Chính-quyền tan-rã

Trời sinh ra hội phong-trần,
Mạc Đăng-Dung lại cường-thần nổi lên.
Trần-Chân tay giữ binh-quyền,
Trên ngờ thế cả, dưới ghen tài lành
Tiếc thay có tướng can-thành,
Tin sàm mà nỡ dứt tình chẳng tha.
Vì ai gây gỗi oan-gia,
Để cho Nguyễn-Kính lại ra báo thù.
Kinh-sư khói lửa mịt-mù.
Xe loan ra cõi Bảo-châu tỵ-trần.
Nguyễn-Sư cũng đảng nghịch-thần,
Nửa năm phù-lập hai lần quốc-vương.
Ngàn Tây một cõi chiến-trường,
Phó cho Mạc-súy sửa-sang một mình.

8. Mạc-Đăng-Dung chuyên-quyền

Đăng-Dung cậy có công-danh,
Thuyền rồng, tán phượng lộng hành sợ chi.
Chiêu-Tông gặp lúc hiềm-nghi,
Nửa đêm lén bước chạy về Tây-phương.
Đăng-Dung lập lại Cung-hoàng,
Hành-cung tạm trú Hải-dương cõi ngoài.
Xe loan về đến kinh-đài,
Sẵn-sàng thiền-chiếu ép bài sách-phong.
Họa-tâm từ ấy càng nồng
Lương-châu Tây-nội cam lòng cho đang.

Các tác phẩm khác

Đoản khúc Lượt xem: 19434
21/12/2014 12:44
Những trang văn gió cuốn đi rồi
Nụ cười viễn mộng
Cánh hoa bé con tím lặng giữa trời
Những con đường khao khát bàn chân

Đồng cảm Lượt xem: 32594
21/12/2014 12:43
Đêm trăng đậu trên cành sương lặng lẽ
Ai thở dài kia, chi xót nỗi thương đời
Ai đứng hát lời tình hiu quạnh đó
Quá vô tình sao giống chuyện lòng tôi

Em Lượt xem: 36058
21/12/2014 12:42
Một chấm xa một chấm xanh
Tự nhiên em chiếm hồn anh diệu kỳ

Gặp bạn ở Cà Mau Lượt xem: 47523
21/12/2014 12:42
Mình gặp nhau ở Cà Mau
Trời ơi sau quá thương nhau thế này
Qua bao gió bụi đường dài
Gian truân nặng gánh vai gầy bao năm

Giọt sương Lượt xem: 31250
21/12/2014 12:24
Tôi vừa gởi mộng cho mây
Gởi mơ cho gió gởi say cho trời
Bao dung chín cũng là mười
Mai xanh riêng cõi cho người thương nhau

Giữa cõi trời chung Lượt xem: 32454
21/12/2014 12:11
Một mình giữa cõi trời chung
Lặng nghe tiếng vọng vô cùng thẳm sâu
Sợi tơ mầu nhiệm không mầu
Thương yêu ơi tự nơi nào về đây.

Giữa đời thường Lượt xem: 25518
21/12/2014 12:10
Cơm canh này của mẹ
Áo quần này của cha
Chữ nghĩa giữa muôn nhà
Văn chương trong trời đất

Góc riêng của thầy Lượt xem: 26973
21/12/2014 12:09
Góc nào là góc riêng tư?
Đêm trần ngâm với tiếng thu chuyển mình
Bóng gầy suy tưởng lặng thinh
Câu văn đời trước, ý tình người sau

Gọi chiều Lượt xem: 31655
21/12/2014 12:08
Người yêu không biết đâu, từ ấy
Tay vẫy hư không chỉ một mình
Lãng đãng mây tìm chi phía biển
Bạn bè xa còn mỏi mòn trông

Gởi Huế Lượt xem: 41947
21/12/2014 12:07
Đừng gởi lời buồn từ Huế
Làm xót lòng người tha hương
Đêm tôi nhìn sao bốn hướng
Bà con lưu lạc mấy phương?

Hiển thị 191 - 200 tin trong 2287 kết quả