Chút lòng
Vì thiên về luật Thi nên ngót 40 năm, từ ngày bước chân vào làng thơ, từ năm 1932 cho đến năm 1974, tôi chỉ có được một tập Lục Bát trên trăm bài lấy tên là Nhánh Lục.
Từ Thu 1975 đến Ðông 1977, chuyên về Lục Bát, tôi soạn liên tiếp được hai tập, tập Nửa Rừng Trăng Lạnh và tập Trăng Hoàng Hôn này.
Nguyên nhân sáng tác, dụng ý trong việc mệnh danh và tánh chất dị đồng của hai tập thơ tôi xin trình bày đại lược:
Nửa Rừng Trăng Lạnh gồm thơ từ 6 câu trở lên mượn chữ trong thơ của Kỳ Lệ Xuyên Phương Bá đời Thanh:
Nhất cảnh hiểu phong tầm cựu mộng
Bán lâm hàn nguyệt thất cô thôn
(Một đường gió sớm đi tìm giấc mộng cũ
Nửa rừng trăng lạnh che lấp thôn mồ côi)
Trăng Hoàng Hôn gồm thơ 4 câu mượn chữ trong thơ Lâm Hoà Thịnh đời Tống:
Sơ ảnh hoành tà thuỷ thanh thiển
Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn.
(Ảnh thưa thớt toả dọc ngang trên dòng nước trong và cạn
Hương kín đáo trôi nổi dưới bóng trăng lúc chiều hôm)
Thơ của cổ nhân vốn không liên quan đến thơ trong hai tập Lục Bát. Mượn chữ đặt tên chỉ mong tỏ chút lòng cùng bạn tương tri tương ái.
Thơ tuy chia làm hai, nhưng hai mà một. Bởi thơ của hai vị Thi Bá, Thanh cũng như Tống đều là thơ vịnh mai và đều là mai dưới nguyệt. Mai ẩn trong nguyệt, nguyệt lồng vào mai. Một tinh thần một cốt cách. Song Mai của Kỳ Lệ Xuyên là mai dưới trăng khuya rừng vắng, trong sáng mà lạnh lùng. Còn Mai của Lâm Hoà Thịnh là mai dưới trăng lúc chiều trời bảng lảng, nhã đạm mà thanh u. Phong vị không đồng mà sắc thái cũng khác, nên một mà hai. Một mà hai, hai mà một. Ðó là chỗ không khác mà khác, khác mà không khác giữa hai tập thơ.
Thơ trong Trăng Hoàng Hôn chỉ là những nét chấm phá lướt qua giấy mỗi khi tâm động ý sanh. Khí cách, thần thái không khác bóng trăng dưới trời chiều, vừa yếu vừa lạt. Lại thêm bị thời cuộc chi phối, tâm hồn tôi không được thanh thản an thư. Chất thơ cũng như giọng thơ do đó không thuần nhất, lắm khi không được trong, không mấy nhuyễn.
Người xưa bảo: “Oanh già không hót, người già không nên làm thơ” Bởi oanh già biết giọng hót của mình không còn thanh tao, thì người già cũng phải biết rằng lời thơ của mình không còn tráng lệ. Nhưng tôi làm thơ không phải để phấn sức tài hoa, mà để ký thác tâm sự, giải thoát ưu tư. Nên miễn sao từ đạt ý là mừng.
Song để khỏi ném đi vì vô vị, mong bạn lòng đừng dừng lại nơi Có mà gắng đi vào chỗ Không. Bạn sẽ gặp mùi ám hương của hoa mai len lỏi trong bóng chiều bảng lảng.
Nha Trang Tiết Xuân Phân
Năm Mậu Ngọ (1978)
Quách Tấn
Nặng tình
Gái thời bến nước mười hai
Mười hai bến chợ làm trai là mình
Dòng đời dù lắm lênh đênh
Con đò xưa vẫn nặng tình cây đa.
Thương mình
Thương mình nặng nghiệp văn chương
Ðã tơ khúc ruột còn sương mái đầu
Mênh mông biển nhuộm màu dâu
Trăm năm thế ấy nghìn thu thế nào?
Tâm sự
Toan vùi đóm lửa văn chương
Dòng trôi tâm sự gió sương lại nhiều
Gương trong dù chẳng nhiễu điều
Vầng trăng cổ độ dẫn triều nước lên.
Lầu khuya
Lầu khuya đã dứt tiếng đàn
Còn nghe đôi cánh hương tàn rụng thu
Phong trần ngấm vị phong lưu
Lòng không trăng nước Giang Châu vẫn buồn.
Tạnh mưa
Mưa rồi trời lại thêm trong
Giàn hoa thiên lý cánh ong dập dìu
Lưa thưa rụng giọt nắng chiều
Áo phơi gió nhẹ ít nhiều hương bay.
Nở hồng
Bụi đường đã vắng ngựa xe
Bức mành rũ thấp còn e gió lồng
Ngồi nhen bếp lửa sưởi lòng
Hoa thơm mấy nụ nở hồng trong sương.
Còn nghe
Hừng đông nối bóng trăng tà
Tiếng chim mát mẻ màu hoa ngọt ngào
Duyên trần đã tỉnh chiêm bao
Còn nghe bước sóng ra vào bến xưa.
Ngại ngùng
Ngại ngùng lửa nắng dầu sương
Nhớ nhau tìm giấc canh trường thăm nhau
Trăng tà hiu hắt gió lau
Thương ai tóc đã bạc màu hoa xuân.
Cúc tháng hai
Canh chầy lòng biết gởi ai
Sân trăng nhìn cúc tháng hai ngậm ngùi
Lạnh lùng tiếng vạc mây trôi
Giếng xưa hắt ánh sao rơi vào thềm.
Ngàn xanh
Ðều trời nửa nắng nửa mưa
Thiu thiu giấc mộng song trưa vừa tàn
Chim non chiu chít gọi đàn
Ngàn xanh ngắm vọi muôn vàn nhớ thương.
Hoa quỳ
Ðổi thay cũng bởi tại trời
Thân mình mình giữ trách người ích chi
Nâng lòng đón ánh tà huy
Vườn quê nghĩ khóm hoa quỳ mà thương.
Thâu đêm
Rằng buồn nghĩ chẳng ích chi
Mà vui cũng chẳng có gì mà vui
Ngoài hiên mưa gió sụt sùi
Củi nhen nửa bếp lửa cười thâu đêm.
Bến xa
Thuyền ai lạnh phiếm trăng thâu
Ðìu hiu lau lách nhạt màu áo xanh
Nước non dệt mộng không thành
Bến xa huyền hạc bay nhanh trở về
Nghẹn ngào
Bạn xưa người mất người xa
Người gần ngó lại ai là bạn thân
Song thơ phủi lớp phong trần
Ngâm câu “xuân thọ mộ vân”(1) nghẹn ngào.
Tuổi già
Tuổi già thêm nặng tình thơ
Nhớ thương người khuất đợi chờ người xa
Lắm đêm tỉnh giấc canh gà
Ðem chồng thơ cũ mở ra ngồi nhìn.
Một tình với thơ
Mái đầu dầu đã hết xanh
Trước sau đời vẫn một tình với thơ
Hiu hiu mạch sống tràn bờ
Mùa hoa nở trọn những giờ say xuân.
Ngọt ngào
Trang lòng phong kín ý thơ
Chòm mai cổ thụ còn chờ chiêm bao
Long lanh giếng mọc đầy sao
Trà chuyên độc ẩm ngọt ngào trăng khuya.
Nghêu ngao
Trước nhà chợ họp lao xao
Dưới hiên nằm hát nghêu ngao một mình
Ai hay gió cũng đa tình
Thổi tường hoa nở cho nhành chim kêu.
Ðọng giọt
Từng hàng mây kéo ra khơi
Sương khuya ướt cánh chim trời về đâu
Bùi ngùi ra đứng sân sau
Nhìn trăng đọng giọt trên tàu chuối non.
Bồi hồi
Tiếng quyên kêu lạnh nắng chiều
Rừng lan hồng hạc tiêu điều khói sương
Bồi hồi ngoảnh lại cố hương
Ngựa ai đủng đỉnh dừng cương giữa đèo.
Ngậm ngùi
Non trăng đã lặng dấu hài
Trải niềm tâm sự sân lài trắng sương
Thương mình chẳng bước tha hương
Lòng nghe sóng vỗ trùng dương ngậm ngùi.
Tiếng địch
Tiết trời vừa mới sang đông
Nối tình ly biệt đầy sông lá vàng
Bến xa tiếng địch mơ màng
Ðưa theo ngọn bấc lòng chàng Tiệm Ly.
Lớp lớp mây giăng
Sân lài ngào ngạt hương đêm
Một mình thơ thẩn bên thềm đợi trăng
Phương trời lớp lớp mây giăng
Tuổi già nghĩ chuyện đấu thăng ngại ngùng.
Mong bớt chua cay
Tuổi già gặp buổi khó khăn
Làm nông thiếu ruộng làm văn trái mùa
Vị đời mong bớt chua cay
Ðêm đêm ngồi lắng chuông chùa điểm sương.
Nửa tin
Hoa sâm đầy giếng nở hồng
Trời mai nắng sưởi giấc nồng song thu
Phấn dồi đôi cánh lãng du
Nửa tin rằng bướm rằng Chu rằng mình.(2)
Gió sen
Mây giăng lớp lớp nhân tình
Tránh đời sao lại ẩn mình trong mây?
Ao nhà một giấc ngủ say
Bình minh trở dậy thuyền đầy gió sen.
Theo bóng
Tìm hoa cánh bướm xuyên rừng
Hiu hiu bụi phấn thơm lừng gió thu
Gió lồng hương trắng bến lau
Bóng chiều theo bóng thuyền câu vào bờ.
Cánh cò
Già càng thương cháu thương con
Lo tìm hạnh phúc mong còn sức lo
Sông sâu gặp buổi không đò
Bâng khuâng ngắm vọi cánh cò lưng mây.
Lệ sáp
Tuổi già ngủ ít nghĩ nhiều
Ðường kia nỗi nọ lắm điều thương tâm
Nỗi niềm mong đợi tri âm
Ðìu hiu lệ sáp ướt dầm trang thơ.
Ngập tràn
Lửa duyên lò nhúm chưa tàn
Sao lòng phong nhã ngập tràn gió sương?
Ân tình gợn sóng tang thương
Lệ hoa rơi rụng vô thường dưới trăng.
Vừa tạnh
Chùa xa vừa tạnh giọt đồng
Tường vi nén lệ nở hồng bình minh
Hương lồng đáy giếng lung linh
Trà mai một hớp ngọt tình cố viên.
Tiếng dương cầm
Dịu dàng trời hảnh nắng mai
Quanh thềm giếng ngọt nở vài hoa sâm
Tay ai thơm ngón dương cầm
Từng đoàn bướm trắng bay tầm mộng xuân.
Thân này
Thân này tuy có mà không
Tuy không mà có trăng trong giữa hồ
Cây rừng lớp lớp vinh khô
Mơ màng tiếng hạc bên hồ Chiêu Vương.
Bến đò năm xưa
Xa nhau lòng chẳng hẹn hò
Nhớ nhau trở lại bến đò năm xưa
Chuồn chuồn mặt nước điểm sưa(3)
Hoa lau nở trắng đôi bờ tịch liêu.
Ðôi én huyền
Canh khuya mưa gió lạnh lùng
Vẳng nghe trước giậu ngập ngừng tiếng ai
Vội vàng khêu ngọn đèn côi
Bay vào cửa hé một đôi én huyền.
Gầy hơi xuân
Lông vàng đôi mái gà tơ
Gà con lông tía sởn sơ một bầy
Trời chiều hiu hắt gió tây
Ôm rơm lót ổ mong gầy hơi xuân
Nhẩy nguồn
Những lo lo chẳng được gì
Những buồn buồn chẳng ích chi mà buồn
Nhẩy sông nhờ nước nhẩy nguồn
Nguồn chưa cạn nước nước còn xuống sông.
Chờ lửa
Ðường trưa nắng những lạnh lùng
Huống đêm mưa gió não nùng xiết bao
Thoi trầm ủ bóng non cao
Nhúm lên chờ lửa ngọt ngào dư hương.
Vấn vương
Tuổi già tưởng được thảnh thơi
Hay đâu bận rộn gấp mười ngày xanh
Chuyện đời tính quẩn lo quanh
Lòng thơ thêm mối chung tình vấn vương.
Thu muộn
Nắng vàng sưởi ấm hiên trưa
Võng gai kẽo kẹt nằm đưa tuổi già
Mây ngàn vọng tiếng chim ca
Dẫu trong thu muộn vẫn là xuân xanh.
Chép thơ
Nghe than “gạo củi hết rồi”
Bên hiên sẻ đậu vẫn ngồi chép thơ
Tay đời đã vụng từ xưa
Học đòi theo nhện giăng tơ ngỡ ngàng.
Ngày tàn
Bạn xưa gát bút cả rồi
Song thơ một bóng mình ngồi ngâm trăng
Ngày tàn thương Ðỗ Thiếu Lăng(4)
Nghìn thu chớp ánh sao băng cuối trời.
Vô tư
Bạn thơ rày chẳng còn ai
Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà sư
Chung trà hớp ngụm vô tư
Chia tay nhìn bóng thanh hư gởi lòng.
Một mình
Gặp nhau nửa buổi chuyện trò
Người về am vắng thơm tho gió ngàn
Một mình ngồi tựa lan can
Nhìn đôi chim én cặp làn mây bay.
Nhớ chùa
Nhớ chùa lòng muốn lên thăm
Sườn non đã dốc đá dăm lại nhiều
Lắng tai nghe tiếng chuông chiều
Mặt hồ lặng sóng mây điều bay qua.
Nhớ bạn
Ngoài trời những gió cùng mưa
Bâng khuâng nhớ bạn cửa chùa viết văn
Hoa đèn nở nhuỵ chuông ngân
Từng trang giấy lật hương xuân ngọt ngào.
Mưa nắng
Mưa mai không hẹn nắng chiều
Nắng chiều sưởi ấm cánh diều mắc mưa
Duyên bèo một chuyến đò đưa
Bèo trôi bến cũ vẫn lưa(5) nghĩa đò.
Nhớ chồng
Sáng nay trời hảnh nắng vàng
Ven sông khói biếc từng hàng cò bay
Nhớ chồng đem lúa ra xay
Lòng nghe thổn thức lệ ngày đưa nhau.
Lên đồi Trại Thuỷ
Mênh mông biển lộng sóng dừa
Lên đồi Trại Thuỷ nắng vừa lên cao
Mùi thiền ngấm vị phong tao
Mùa không sen nở vẫn ngào ngạt hương.
Ðưa nhau
Nắng chiều nhuộm thắm ngàn mây
Lưng đồi hoa nở vàng tay ai về
Cửa chiền(6) thơm mát tình quê
Ðưa nhau chiếc lá bồ đề bay theo.
Am mây
Lưng đồi khép cánh am mây
Ðêm đêm lần hạt ngày ngày dịch kinh
Phong lan trước cửa buông mành
Hương trong theo ngọn gió lành bay xa.
Trồng hoa
Hoa không ấm cật no lòng
Người trồng dâu lúa ta trồng hoa thơm
Khi đời ấm áo no cơm
Hái năm ba nhánh vào đơm lục bình.(7)
Duyên lành
Ðã trôi theo ngọn thuỷ triều
Thân bèo chi khỏi ít nhiều lênh đênh
Ðường xa gặp mối duyên lành
Tình tha hương phút trở thành gia hương.
Vô thường
Hoàng hôn chầm chậm xuống gần
Ðồi cao rảo bước thương vần Nghĩa Sơn
Vô thường lá rụng từng cơn
Trời xanh thả mảnh trăng non xuống hồ.
Bên sông
Hơi sương đã lạnh nắng chiều
Con đò vắng khách tiêu điều nước mây
Về rừng từng trận chim bay
Thân cò mòn mỏi tháng ngày bên sông.
Vườn quê
Ngày nay chi khác ngày qua
Ngày mai rồi nữa cũng là ngày nay
Ðầy trời lá rụng sương bay
Vườn quê một khóm mai gầy nở hương.
Non sâu gởi về
Bạn thân lớp trước chẳng còn
Ðồng trang quá nửa mỏi mòn lá thu
Thương mình đơn chiếc bóng dâu
Khóm lan hồ điệp non sâu gởi về.
Vẫn xanh
Từng cơn lá rụng nắng vàng
Gió đôi cổ tháp bay sang xóm chài
Trời cao nhuộm thắm sông dài
Màu xanh nước chảy chảy hoài vẫn xanh.
Rụng nắng chiều
Sen hồ từng trận hương đưa
Chen tầng mây khói lửng lơ cánh diều
Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa khua rụng nắng chiều đầy non.
Nỗi niềm
Giang Lang tuổi đã về già
Bút đâu còn sức cho hoa thắm màu
Mây ngàn trải ngọn gió lau
Ðôi hàng nhạn trắng chép mau nỗi niềm
Chú thích: (Phần chú thích này không thuộc vào chính văn của tác phẩm, do Trương củng đưa thêm vào)
(1)Xuân thụ mộ vân.春樹暮蕓. Ý nhớ bạn phương xa.
Lấy chữ trong bài “Xuân nhật ức Lý Bạch” 春日憶李白 của Ðỗ Phủ, bài thơ tả lúc Ðỗ Phủ ở Giang Ðông ngày xuân nhớ Lý Bạch ở Vị Bắc.
白也詩無敵, Bạch dã thi vô địch,
飄然思不群. Phiêu nhiên tứ bất quần.
清新庾開府, Thanh tân Dữu khai phủ,
俊逸鮑參軍. Tuấn dật Bào tham quân.
渭北春天樹, Vị bắc xuân thiên thụ,
江東日暮雲. Giang đông nhật mộ vân.
何時一樽酒, Hà thời nhất tôn tửu,
重與細論文. Trùng dữ tế luận văn.
Trần Trọng San dịch
Ngày Xuân Nhớ Lý Bạch
Không có thơ nào hơn Lý Bạch ;
Ý phơi phới nhẹ, chẳng ai bằng .
Thanh tân giống hệt Dữu Khai phủ ,
Tuấn dật như là Bào tham quân .
Vị Bắc cây xuân trời chốn cũ ,
Giang Ðông mây vẫn bóng chiều tàn .
Bao giờ rượu lại cùng nâng chén ,
Câu chuyện văn chương lại được bàn ?
(2) Trang Chu mộng hồ điệp: Trang chu nằm mộng thấy mình hoá bướm, tỉnh dậy không biết tối qua Trang Chu mơ thành bướm, hay sáng nay bướm đang mơ thành Trang Chu, ở đây tác giả tỉnh giấc không biết mình là mình, hay là Trang Chu hay là bướm đang nằm mộng.
(3) Ðiểm sưa: Ðiểm thưa thưa, thỉnh thoảng đáp xuống nước. Sưa là thưa nói trạnh ra. Ca dao: Tiếc công đan giỏ bỏ cà, giỏ sưa cà lọt, công đà uổng công.
(4) Ðỗ Thiếu Lăng: Ðỗ Phủ , Thi hào của Trung hoa đời Ðường
(5) Lưa: còn dư, còn thừa.
(6) Cửa chiền: cửa chùa, như ta thường nói từ kép chùa chiền.
(7) Lục bình: độc bình, bình cắm hoa, viết theo phát âm của người miền Trung
Vũ Hoàng Chương (1916-1976) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 21909
22/12/2014 10:39
Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 1916 – 6 tháng 9 1976) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.
Ông mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn.
Xuân Diệu (1916-1985) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 24357
22/12/2014 10:39
Xuân Diệu (2 tháng 2 năm 1916 – 18 tháng 12 năm 1985) là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió.
Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.
Xuân Diệu đã lập gia đình riêng một lần với Nghệ sĩ Nhân dân Bạch Diệp nhưng hai người đã ly dị và họ không có con chung[2]. Sau khi ly dị ông sống độc thân cho đến lúc mất vào năm 1985.
Phạm Huy Thông (1916-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 21426
22/12/2014 10:39
Phạm Huy Thông (1916–1988) là nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam.
Phạm Huy Thông là hậu duệ thế hệ thứ 24 của Phạm Ngũ Lão, và là thế hệ thứ 48 của thượng thủy tổ Phạm Tu. Quê gốc của Phạm Huy Thông ở làng Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một gia đình làm nghề kinh doanh lớn, có tinh thần dân tộc [1].
Ông mất vào ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.[2]
Thâm Tâm (1917-1950) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 19328
22/12/2014 10:39
Thâm Tâm (1917–1950) là một nhà thơ và nhà viết kịch Việt Nam. Ông nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành, với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí rất cao.
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương.
Ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại Bản Pò Noa, Xã Phi Hải, Huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
Hồ Dzếch (1916-1991) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 26465
22/12/2014 10:38
Hồ Dzếnh (sinh năm 1916- mất ngày 13 tháng 8 năm 1991), tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam.
Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt, quê ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa.
Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội do xuất huyết dạ dày và viêm thận[1].
Quang Dũng (1921-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 24135
22/12/2014 10:38
Quang Dũng (tên thật là Bùi Đình Diệm; 1921–1988 (67 tuổi)) là một nhà thơ Việt Nam.
Quang Dũng tên thật Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội).
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1988 sau một thời gian dài đau ốm tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội.
Nguyên Hồng (1918-1982) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 22577
22/12/2014 10:38
Nguyên Hồng (1918 – 1982) là nhà văn có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tên thật của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 tại thành phố Nam Định[1].
Nguyên Hồng qua đời ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang).
Nguyễn Bính (1918-1966) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 30607
22/12/2014 10:38
Nguyễn Bính (tên thật là Nguyễn Trọng Bính; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.
Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định).[1]
Hầu như ai cũng biết rằng nhà thơ Nguyễn Bính qua đời vào một ngày giáp Tết Bính Ngọ (1966), chính xác là ngày 29 Tết (tháng chạp này không có ngày 30).
Chế Lan Viên (1920-1989) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 32034
22/12/2014 10:37
Chế Lan Viên (1920-1989) là một nhà thơ, nhà văn hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi.
Hồng Nguyên (1924-1951) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 21372
22/12/2014 10:37
Nhà thơ Hồng Nguyên tên khai sinh là Nguyễn Văn Vượng, sinh năm 1924 tại xã Đông Thọ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1951, Hồng Nguyên lâm trọng bệnh và mất tại quê nhà khi ông đang là Trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Thanh Hóa.
Hiển thị 171 - 180 tin trong 2309 kết quả