Thơ

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Trần Tuấn Khải (4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông là: Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ.

Tiểu sử

Trần Tuấn Khải người làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Xuất thân là nhà nho nghèo, có truyền thống yêu nước. Cha ông là Trần Khải Thụy, đỗ cử nhân khoa thi Hương tại Nam Định năm Canh Tý (1900). Năm lên 6 tuổi, ông bắt đầu học chữ Hán với cha. Nhờ mẹ ông cũng là người thuộc nhiều ca dao, thi phú, lại hết lòng dạy dỗ con, vì vậy mới 12 tuổi, ông đã biết làm đủ các thể thơ bằng chữ Hán.

Năm Giáp Dần (1914), cha ông lâm bệnh mất tại nơi nhiệm sở. Khi ấy, Trần Tuấn Khải vừa đúng 19 tuổi và cũng vừa lấy vợ được một năm. Qua năm 1919, ông trở lại làng Quang Xá dạy học, được ít tháng ông lại xuôi ngược khắp miền Bắc, rồi đưa vợ ra Hà Nội. Nhưng ít lâu sau, thấy chồng ghét cảnh náo nhiệt, bà Khải bán nhà đến mua một trang trại ở ấp Thái Hà, ven đô Hà Nội.

Năm 1921, ông xuất bản tập thơ thứ nhất Duyên nợ phù sinh I, được giới văn chương đương thời chú ý. Năm sau, ông được mời vào Ban biên tập nhật báo Khai Hóa tại Hà Nội và nhận lời viết giúp cho nhiều báo khác. Đến khi ông cho xuất bản Bút quan hoài I, gồm nhiều bài bi tráng, được nhiều người hoan nghênh, thì Pháp ra lệnh cấm lưu hành và tàng trữ tập thơ đó (1927).

Mấy lần, Trần Tuấn Khải định xuất dương mà không thành: 1915-1916: dự định qua Đông Hưng (Trung Quốc), 1927: dự tính sang Pháp. Nhà cầm quyền Pháp dò la biết ông có ý định trên, đồng thời có đến liên hệ các nhà cách mạng, như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc KhángHuế và những nhà hoạt động lưu vong như Đào Trinh Nhất, Hoàng Tích Chu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Trường TamSài Gòn...nên cho người lùng bắt ông. Nhờ có người báo tin, ông lẻn ra ẩn trốn nơi động Huyền Không trong dãy Ngũ Hành Sơn (Quảng Nam).

Năm 1932, tác phẩm Chơi xuân năm Nhâm Thân được xuất bản, nhưng ngay sau đó bị Pháp ra lệnh tịch thu, khám nhà rồi bắt giam Trần Tuấn Khải và chủ nhà sách Nam Ký. Ông bị giam hơn 2 tháng rồi bị kêu án 2 tháng tù treo về tội viết sách "phá rối trị an, xúi dân nổi loạn". Trong nhà giam Hỏa Lò, Trần Tuấn Khải gặp được Nghiêm Toản và nhiều nhà tri thức có tâm huyết khác [1].

Ra tù, vợ chết, con nhỏ chết. Chôn cất vợ con xong, ông trở về Thái Hà, lại bắt đầu viết bài cho các báo. Năm 1938, ông cưới người vợ thứ họ Nguyễn, sinh được một ái nữ[2] (nhà thơ Lan Hinh).

Năm 1947, ông đem theo con gái tản cư đến Nho Quan, nhưng đến năm 1954 thì di cư vào Nam, làm việc tại Thư viện Quốc gia, Viện Khảo cổ, chuyên viên Hán học tại Nha văn hóa và các báo Đuốc Nhà Nam, Văn hóa nguyệt san, Tin văn...

Năm 1966, ông cùng một số trí thức tiến bộ ký tên yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa trực tiếp hiệp thương với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhằm vãn hồi hòa bình, nên bị buộc nghỉ việc[3]. Sau đó, ông là chủ tịch danh dự lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc năm 1966 – 1967[3].

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi mất vì bệnh già tại cư xá Trần Quốc Toản (cư xá Liautey của Pháp), hưởng thọ 88 tuổi (1983).

Tác phẩm

Thơ

  • Duyên nợ phù sinh I (1921)
  • Duyên nợ phù sinh II (1922)
  • Bút quan hoài I (1924)
  • Hồn tự lập I (1924)
  • Bút quan hoài II (1927)
  • Hồn tự lập II (1927)
  • Với sơn hà I (1936)
  • Với sơn hà II (1949)
  • Hậu anh Khóa (1975)

Tiểu thuyết

  • Gương bể dâu I (1922)
  • Hồn hoa (1925)
  • Thiên thai lão hiệp(1935- 1936)

Kịch

  • Mảnh gương đời (1925)

Dịch thuật

Thành tựu nghệ thuật

  • Trong Tự điển văn học:
Văn xuôi của Trần Tuấn Khải tựu trung vẫn là lối văn cổ, từ hình thức đến nội dung đều có phần lạc hậu, chưa theo kịp đà phát triển của văn xuôi lúc bấy giờ. Thơ ca mới là phần chính trong sự nghiệp sáng tác của Trần Tuấn Khải và cũng là phần ông đạt được một số thành công nhất định.
Thơ Trần Tuấn Khải thường nói đến tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình làng nghĩa nước, nghĩa đồng chủng, đồng bào, lòng thủ chung, nhân ái... đó là nếp sống, là đạo đức truyền thống của dân tộc.
Và thơ ông đều có ngụ ý nhắc nhủ về non sông, đất nước. Đất là cái nhìn ưu thời mẫn thế của tác giả, đồng thời đấy cũng chính là tình cảm phổ biến của nhiều người lúc bấy giờ: thiết tha với độc lập dân tộc... Chính vì thế mà thơ ca của ông được quần chúng yêu thích.
Các bài như "Gánh nước đêm", "Tiễn chân anh Khóa", "Mong anh Khóa", "Gửi thư cho anh Khóa", trong một thời gian dài đã được truyền tụng rộng rãi.
Về mặt nghệ thuật, ngoài những bài được sáng tác theo thể thơ Đường luật, ông còn viết bằng các thể thơ thuần Việt như: lục bát, song thất, các điệu hát ví, hát xẩm, sa mạc, hát nói... và phần thành công chính là ở đây [4]
  • Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến:
Thơ Trần Tuấn Khải không chứa đựng triết lý bí hiểm, tư tưởng cao siêu, nó giản dị như một chân tình, nó rỡ ràng như sự phơi bày trọn vẹn cả tấc lòng. Người đọc dễ dàng đạt ý và rung động qua trực cảm, vì Á Nam đã cấu tạo thơ mình bằng nhạc điệu quen thuộc của dân tộc, cho nên sức truyền cảm rất bén nhạy.
Khảo sát thơ ông, chúng tôi bắt gặp đó đây những tư tưởng đã thành châm ngôn và cũng không ngoài việc gieo vào lòng người một ý chí bất khuất, một hùng khí ngùn ngụt, một nghĩa vụ thiết yếu của con người đúng với danh nghĩa "làm người" của nó[5]

Nhớ Trần Tuấn Khải

Trích một vài mẫu chuyện của các nhà thơ và các nhà nghiên cứu văn học:

  • Trần Tuấn Kiệt, soạn giả bộ Thi ca Việt Nam hiện đại:
Chúng tôi từ nhỏ, lúc còn học ở trường tiểu học Sa Đéc, được thầy dạy vài câu thơ cùa Á Nam Trần Tuấn Khải, không biết vì sao mà chúng tôi cảm thấy say sưa với những dòng thơ đó:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam giá thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
...Thơ ông đã gieo vào lòng chúng tôi một mối cảm thông hoàn cảnh đất nước. Như một ánh sáng chói lọi mở cho con mắt trẻ trung của chúng tôi nhìn thấy cảnh điêu tàn của quê hương...[6]
Tôi đọc "Bút Quan Hoài" của Trần Tuấn Khải từ lúc còn nhỏ, và đã thuộc lòng:
Trời hè đương lúc nấu nung,
Nước đâu cô nỡ dứt lòng bán rao?
Bây giờ thiên hạ khát khao,
Khô gan ráo cổ kêu gào Nước luôn...
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng,
Nước Non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay?...
Đầu óc con nít học trò, cảm thấy hai bài thơ chứa đựng tư tưởng thâm trầm và bi thương về Nước, của người dân mất Nước, tự nhiên chiêm ngưỡng tác giả như một thần tượng...[7]
Tôi không quên lúc học lớp nhì, 14 tuổi, tôi mượn được quyển "Bút quan hoài". Tôi chép vào quyển vở mới một số đoạn thơ thích nhất...Quyển vở thơ Trần Tuấn Khải quí báu của tôi, như là tiếng gọi của lương tâm! [8]

chú thích

Các tác phẩm khác

Già kén kẹn hom Lượt xem: 17625
19/08/2013 07:28
Bụng làm dạ chịu trách chi ai,
Già kén kẹn hom ví chẳng sai.
Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc,
Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy.

Vịnh cái quạt Ii (Cái quạt giấy - bài 2) Lượt xem: 19010
19/08/2013 07:28
Mười bảy hay là mười tám đây (1)
Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.
Mỏng dày từng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay. (2)

Vịnh cái quạt I (Cái quạt giấy - bài 1) Lượt xem: 12676
19/08/2013 07:26
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,(1)
Duyên em dính dán tự bao giờ,(2)
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Tự tình Iii Lượt xem: 16395
19/08/2013 07:25
Chiếc bách (1) buồn vì phận nổi nênh,
Giữa giòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.

Duyên kỳ ngộ Lượt xem: 6270
19/08/2013 07:22
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành, (1)
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.

Tự tình Ii Lượt xem: 15177
19/08/2013 07:21
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom (1)
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc. (2)
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om (3)?

Mầu thu năm ngoái Lượt xem: 17633
18/08/2013 20:40
Trời không nắng cũng không mưa,
chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.
Chiều buồn như mối sầu chung,
lòng êm nghe thoảng tơ chùng chốn xa.

Lũy tre xanh Lượt xem: 10168
18/08/2013 20:28
Làng tôi thắt đáy lưng... tre
Sông dài, cỏ mượt đường đê tư mùa. (1)
Nhịp đời định sẵn từ xưa:
Ươm tơ tháng sáu, lên chùa tháng giêng.

Rằm tháng giêng Lượt xem: 15336
18/08/2013 20:27
Ngày xưa còn nhỏ, ngày xưa
Tôi đeo khánh bạc ,lên chùa dâng nhang.
Lòng vui quần áo xênh xang,
Tay cầm hương, nến, đinh vàng mới mua.

Muôn trùng Lượt xem: 15136
18/08/2013 20:26
Tình vạn dặm, tên người yêu chắc đẹp,
Người và tôi xa quá đỗi -- muôn trùng;
Tôi với người chưa một giấc mơ chung,
Đời viễn xứ nên tình không thấu hết.

Hiển thị 1961 - 1970 tin trong 2226 kết quả