nguồn : http://vi.wikipedia.org
Tế Hanh (1921 - 2009), tên thật là Trần Tế Hanh [1]; là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1921 tại làng Đông Yên, phủ Bình Sơn; nay là xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Cha ông là Trần Tất Tố, làm nghề dạy học và làm thuốc. Ông có bốn anh em, trong đó người em út là nhạc sĩ Trần Thế Bảo.
Thuở nhỏ, ông học ở trường làng, trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại trường Khải Định (tức Quốc Học Huế).
Sẵn tính ham thích thơ, lại được thi sĩ Huy Cận "chỉ vẽ"[2], nên Tế Hanh bắt đầu sáng tác. Năm 1938, 17 tuổi, ông viết bài thơ đầu tiên: "Những ngày nghĩ học".
Sau đó, ông tiếp tục sáng tác, rồi tập hợp thành tập thơ Nghẹn ngào. Năm 1939, tập thơ này được giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn.
Năm 1941, Tế Hanh và thơ của ông ("Quê hương", "Lời con đường quê", "Vu vơ", "Ao ước") được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Tháng 8 năm 1945, Tế Hanh tham gia Việt Minh, tham gia công tác văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng; và là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
Từ năm 1949 cho đến năm 1954, ông ở trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn nghệ. Năm 1957, Hội nhà văn Việt Nam thành lập, Tế Hanh tham gia Ban Biên tập tuần báo Văn của Hội, và nhiều năm, ông còn là Ủy viên chấp hành và Ban thường vụ của hội.
Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I[3]
Vào những năm 80, ông bị đau mắt và mắt ông mù dần. Từ đó ông bệnh liệt giường lúc mê lúc tỉnh. Ông qua đời vào lúc 12 giờ ngày 16 tháng 07 năm 2009 tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não [4].
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.
Tế Hanh là nhà thơ khá nổi tiếng, sáng tác cùng thời với Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận...và là một trong ba thi sĩ sinh quán tại Quảng Ngãi nổi danh ngay từ trước năm 1945: Nguyễn Vỹ, Bích Khê, Tế Hanh.
Trích một số nhận xét viết về thơ của ông:
Kể lể
Lượt xem: 29553
19/12/2014 06:41
Em bỏ anh là phải lắm rồi!
Mến yêu chi kẻ chỉ buồn thôi,
Mến yêu chi kẻ bao giờ cũng
Ngơ ngác in như lạc giữa đời.
Tâm lý trên trời
Lượt xem: 16804
19/12/2014 06:40
Lòng em thay đổi như là,
Đổi thay cô ả Hằng Nga trên trời:
Có khi rực rỡ sáng ngời,
Có khi nhợt nhạt, khi thời đi đâu.
Thương
Lượt xem: 22737
19/12/2014 06:39
Đâu người em của thuở duyên thơ?
Đâu buổi lòng ta trống hững hờ
Bóng tối ý buồn len lỏi đến
Tìm người san sẻ bớt bơ vơ?
Vườn cũ
Lượt xem: 22521
19/12/2014 06:39
Kỷ niệm Tường Đông
Cánh cổng đi vào run rẩy đưa;
Lối đi cỏ rậm phủ che vừa.
Ngôi nhà mái cũ rêu in lớp
Hé bức rèm đơn đỡ nắng trưa.
Phượng
Lượt xem: 26119
19/12/2014 06:38
Lưu ly chất ngọc đọng màu bông
Cành rực hừng theo trận gió nồng
Ơi phượng! ngươi là cây đuốc sáng
Đất đầy tin tưởng vọng lên không.
Trái chín
Lượt xem: 23558
19/12/2014 06:37
Hỡi trái dưa lơ lửng trên cành
Sắc vàng chín nổi giữa màu xanh
Biết bao huyền diệu trong đời trái
Từ cõi hư vô đến tượng hình?
Chùa
Lượt xem: 28039
19/12/2014 06:36
Tặng Quách Tạo
In rõ rệt chân trời quá khứ,
Chùa không thôi tình tự thuở xa xăm
Tuổi thơ tôi là cả một đêm rằm
Trăng tỏ rạng sáng chầu quanh đức Phật
Hồn thanh thoát chưa hề vương vật chất
Đồng vọng xa cùng nhịp tiếng chuông bay
Cảm thông
Lượt xem: 18954
19/12/2014 06:34
Nằm trong cỏ một chiều man mác
Nghe gió xuân thổi quạt hồn cây
Thái bình xanh ngắt từng mây
Lá phơi sắc biếc, đời gây mộng đào
Một nỗi niềm xưa
Lượt xem: 16616
19/12/2014 06:34
Kính dâng cha tôi
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than(1)
Trăng tàn
Lượt xem: 17634
19/12/2014 06:33
Ta là mảnh trăng đến hồi le lói
Nằm trên cao thương hại kẻ trần gian:
Nhân nghĩa thờ ơ, thú vui mê mải;
Thấy ta tươi, không thấy thuở ta tàn.
Hiển thị 821 - 830 tin trong 2187 kết quả