xviii. Cuối đời nhà Lê (1783 - 1786)
1. Loạn kiêu-binh ở kinh-thành
Sâm già, Cán lại thiếu-niên
Phó cho Hoàng-Bảo giúp nên sao đành?
Tuyên-phi học thói buông mành,
Trong dưa dưới mận nhân-tình đều nghi.
Ở trong Khải mới thừa ky,
Ngoài quân ba phủ nhân khi lộng-hành
Cùng nhau sáp-huyết hội-minh,
Trống hồi chửa dứt, các dinh đã vào.
Cửa thành binh-lửa xôn-xao,
Một cơn cỏ nội cá ao còn gì!
Cán vong, Khải lại tiếm-vì,
Phủ-binh từ ấy nhiều bề tuyên-kiêu,
Hung-hăng ngoài phố trong triều,
Phá nhà cướp của, dập-dìu vào ra.
Đầy đường những tiếng oán-ta,
Văn-thần, võ-tướng đều là bó tay.
2. Nguyễn-Huệ ra Bắc lần thứ nhất
Tiến đồn nghe đến giặc Tây,
Tiềm-mưu còn rắp đợi ngày xuất-chinh.
Có tên Nguyễn-Chỉnh tài-danh,
Nhân khi tao-loạn đem mình hàng Tây.
Cơ-quan mưu-lược vẽ bầy,
Cam lòng nước cũ, mượn tay người ngoài.
Tây-sơn biết tỏ một hai,
Chia quân thủy-bộ quyết bài kéo ra.
Ngọn cờ trổ lối sơn-pha,
Hải-vân đồn-trấn, đâu là chẳng tan?
Cánh buồm đè lớp cuồng-lan,
Cát-dinh, Động-hải quân-quan chạy dài.
Ngụy Tây còn sợ mặt ngoài,
Rắp ngăn Tràng-lũy tính bài phân-vương
Khéo đâu Chỉnh lại đưa đường,
Rằng: " Trong sự thế chi nhường cho ai?
Tướng-công uy nhức bên trời,
Này cơ phát trúc hẳn mười chẳng xa.
Bấy lâu họ Trịnh gian-tà,
Binh kiêu, dân oán ắt là bại vong.
Uy trời ai giám tranh-phong,
Hãy xin thừa thắng ruổi giong cõi ngoài."
Phải chăng Huệ mới nghe lời,
Lại cho Nguyễn-Chỉnh, lĩnh bài tiên-phong.
Lá buồm theo ngọn gió đông,
Vượt qua cửa bể vào sông Vị-Hoàng.
Quân-dung, đâu mới lạ nhường!
Mão mao, áo đỏ chật đường kéo ra.
3. Chúa Trịnh-Khải bị bắt
Bụi hồng mờ-mịt kinh-hoa,
Lục-môn, Thúy-ái gần xa tan-tành.
Quyết liều Trịnh mới thân-chinh,
Tây-luông giáp trận quân mình đảo qua
Nài voi toan trở lại nhà,
Cờ Tây-sơn đã mở ra đầy thành.
Qua Hạ-lôi rắp lánh mình.
Giữa đường gặp đứa phụ tình bắt ra.
4. Nguyễn-Huệ trả quyền Lê-Hiển-tông
Ngụy Tây vốn kẻ hung-tà,
Còn e người chốn Bắc-hà khó xong.
Phù Lê có biểu mật-phong,
Mặt ngoài trung-nghĩa, trong lòng gian-phi.
Hiển-tông tuổi tác đã suy,
Nghe tin binh-biến biết gì là đâu.
Vừa khi Nguyễn-Huệ vào hầu,
Vấn-an lại kể gót đầu đinh-ninh.
Rằng: " Nghe họ Trịnh cường-hoành,
Vậy đem quân nghĩa quét thanh bụi-trần.
Chủ-trương mừng thấy đông-quân.
Thái-bình cây cỏ được nhuần hơi mưa."
Phúc lành chúc chữ cửu-như.
Của tin mấy quyển đồ-thư dâng vào,
Bệ rồng ban chiếu tinh-bao,
Gia phong Nguyễn-Huệ đương trào quốc-công.
Ngọc-Hân vừa trạc đào hồng,
Ép duyên kim-cải kết lòng sài-lang,
Đương cơn đòng bác ngổn ngang,
Thực-hư chưa tỏ, biến-thường ai tin.
Hơi tàn gần trở gót tiên,
Lại vời Nguyễn-Huệ gửi quyền quốc-gia.
Một hai xin trở về nhà,
Bóng đèn, tiếng búa giám là di-duyên.
5. Quân Tây-sơn rút về Nam
Bảo-thành kinh-lý đã yên,
Ngôi-cao phó lại cháu hiền thừa-gia.
Duy-Kỳ nối giữ nghiệp nhà.
Cải nguyên Chiêu-thống mới là sơ-niên.
Huệ còn lưu ở Long-biên,
Anh là Nguyễn-Nhạc theo miền lại ra.
Rước mời ngày tiếp đôi ba,
Bệ-từ, Nhạc mới lân-la tự-tình
" Đất, dân đâu cũng triều-đình,
Giao lân rồi sẽ cất mình Nam-qui."
Nửa đêm ám-hiệu cuốn kỳ
Bao nhiêu tài-hóa chuyên về sạch không.
Bỏ Nguyễn-Chỉnh ở Thăng-long.
Cũng toan cắt cánh mở lồng với ai.
Về quê Chỉnh mới giả bài,
Rằng vâng mật-chỉ hồi-sai đất nhà.
Mộ quân hương-dõng đem ra,
Ngoài là chống giặc, trong là giữ kinh.
6. Triều-đình vua Lê-Chiêu-Thống
Cựu-thần mấy kẻ công-khanh,
Thoái-hưu để việc miếu-đình mặc ai?
Tân-khoa còn có một hai,
Bùi-Dương, Trần-Án cũng người trung-trinh.
Cùng nhau phụng sắc triệu-binh,
Thổ-hào củ-tập vào kinh hộ-tùy.
Phân-vân tranh-lập nhiều bề,
Kẻ phò Trịnh-Lệ, người suy Trịnh-Bồng.
Yến-đô lại cứ tập-phong,
Những mưu phò Trịnh, quên lòng tôn Lê.
Mậu-Xưng, Tích-Nhưỡng kể chi,
Phùng-Cơ còn biết thị-phi nhẽ thương,
Trách thay Trọng-Tế họ Dương,
Cũng trong khoa-bảng, cùng phường đai-cân
Sao không biết nghĩa quân-thần
Bầy mưu phế-lập sắp quân vây thành.
Non sông còn mặt triều-đình,
Bạc đen xem thấy nhân-tình mà ghê.
7. Nguyễn-Hữu-Chỉnh chuyên-quyền
Lê-hoàng căm giận nhiều bề,
Mật-thư sai sứ đưa về Nghệ-an.
Chỉnh xưa tuy giả mưu-gian,
Được thư rầy mới nở gan anh-hùng.
Hịch bay đâu cũng nức lòng,
Tứ-thành Tứ-đột quân ròng hơn muôn,
Dặm trường thẳng ruổi chinh-an
Nghệ, Thanh quét sạch mấy đoàn kiến ong,
Yến-đô sức yếu thế cùng,
Theo Dương Trọng-Tế qua vùng Bắc-ninh.
Đại-quân tiến đến kinh-thành,
Long-tân ngự-duyệt, đại-đình thưởng-công.
Loan-thư ban trước thềm rồng
Cha phong Bằng-quận, con phong tước hầu.
Trăm quan ngôi thứ ở đầu,
Cánh vây sum-họp, phủ-lầu nghênh ngang.
Quách Tấn (1910-1992) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 23884
07/01/2015 17:00
Quách Tấn (1910-1992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm 1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.
1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.
Phùng Khắc Khoan (1528-1613) - Tiểu sử và sự nghiệp
Lượt xem: 28419
07/01/2015 16:54
Phùng Khắc Khoan (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự: Hoằng Phu, hiệu: Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam.
Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 tại làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tinh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm [1].
Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó.
Phan Khôi (1887-1959) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 19478
07/01/2015 16:47
Phan Khôi (潘魁, 1887-1959) là một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, về sau đứng trong trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con của Phó bảng Phan Trân (tri phủ Điện Khánh) và bà Hoàng Thị Lệ (con gái Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu).
Cuối năm 1954 hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác. Trong thời gian 1956-1957, là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, ông bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.
Phan Châu Trinh (1872–1926) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 23463
07/01/2015 16:39
Phan Châu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1], người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, tự là Tử Cán.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn[12].
Phan Bội Châu (1867–1940) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 26211
07/01/2015 15:01
Phan Bội Châu (1867–1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San.[1] Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu.[2]Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam.
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế.
Nguyễn Vỹ (1912-1971) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 28298
07/01/2015 14:37
Nguyễn Vỹ (1912[1]-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca đương thời.
Nguyễn Vỹ sinh tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, năm 1945 lại đổi là Phổ Phong), huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Thuyên[2] từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để chống Pháp. Mẹ ông là bà Trần Thị Luyến.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh Long An)-Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.
Nguyễn Nhật Ánh (1955 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 27845
07/01/2015 10:52
Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam.
Nguyễn Duy (1948 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp
Lượt xem: 30368
07/01/2015 10:42
Nguyễn Duy (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948), là một nhà thơ hiện đại Việt Nam
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa.
Mộng Tuyết (1914-2007) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 21345
07/01/2015 10:39
Mộng Tuyết (1914-2007), tên thật Thái Thị Úc; là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến.
Các bút hiệu khác của bà là: Hà Tiên cô, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ sĩ, Thất Tiểu Muội. Mộng Tuyết là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê và Trúc Hà.
Mộng Tuyết sinh ngày 9 tháng 1 năm 1914 ở làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên (nay thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang).
Mộng Tuyết mất ngày 1 tháng 7 năm 2007 tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.
Lý Tử Tấn (1378-1457) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 27923
07/01/2015 10:31
Lý Tử Tấn (tới khi đứng tuổi, ông mới đổi tên là Nguyễn Tử Tấn; 1378-1457), hiệu Chuyết Am; là quan nhà Lê sơ, và là nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ.
Lý Tử Tấn là người ở làng Triều Đông (sau đổi là Triều Liệt), huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh huyện Thường Tín, Hà Nội).
Ông mất năm 1457[2], thọ 79 tuổi.
Hiển thị 61 - 70 tin trong 2283 kết quả