xvii. Nhà Lê suy vi (Trịnh-Nguyễn phân tranh: 1729 - 1782)
1. Chính-sách đồi-bại của Trịnh-Giang
Trịnh-Giang quen lối gian-hào.
Truất ngôi Vĩnh-Khánh hãm vào tội-nhân.
Thuần-Tông đặt bỏ mấy lần,
Phúc-uy mặc sức cường-thần mới ghê.
Ý-tông còn tuổi hài-đề
Danh tuy chính-thống , quyền về phó-vương.
Trịnh càng dâm ngược kiêu-hoang,
Đêm ngày luống những tham đường vui chơi.
Dấu xe giong-ruổi quanh trời,
Sửa-sang cảnh Phật, vẽ-vời động tiên.
Quỳnh-lâm, Hương-hải, Hồ-thiên ,
Của thiên-hạ chất cửa thiền biết bao?
Kho-tàng ngày một tiêu-hao ,
Bán khoa, mua tước tiền vào sáu cung
Phó vương còn chửa cam lòng,
Thượng-vương lại giả sắc rồng nhà Thanh.
Tội trời kể đã quánh-doanh ,
Sao cho nghiệp báo đến mình mới thôi.
Bỗng đâu một tiếng thiên-lôi ,
Thất-kinh ngơ-ngác như người chứng điên.
Ở hang lại gọi cung tiên,
Để đoàn nội-thụ chuyên quyền lộng uy .
2. Sự loạn-lạc ở Bắc-hà
Lòng người đâu chẳng bạn-ly ,
Ếch kêu, ác họp thiếu gì gần xa!
Sơn-nam có giặc Ngân-già,
Nguyễn-Cừ, Nguyễn-Tuyển ấy là giặc Đông.
Sơn tây: nghịch Tế, nghịch Bồng ;
Động ngoài ba mặt, nhộn trong bốn bề.
Nằm hang Trịnh có biết gì!
Quận Bào, quận Thực đua bì tranh công.
3. Trịnh-Doanh và Lê-Hiển-tông
Phó-vương quen lối nhà dòng,
Chẳng phò Trịnh-thị sao xong việc đời?
Nguyễn-công Quí-Cảnh mấy người,
Vào trong định sách ra ngoài diệu binh .
Cùng nhau phù-lập Trịnh Doanh,
Thái-vương Trịnh lại tôn anh làm vì.
Sai quan kinh-lược bốn bề ,
Khải-ca mấy khúc đều về tấu-công .
Cơ-mưu Trịnh cũng gian-hùng,
Nghĩ mình chuyên-tiếm ắt lòng ai ưa.
Có Lê mới có đến giờ,
Phải cầu hiền-đức để nhờ phúc-chung .
Kìa người mắt phượng râu rồng,
Duy-Diêu vốn cũng là dòng thần-minh .
Hạ-đài khuất bóng tiền-tinh ,
Khuôn thiêng còn để một cành phúc-chi .
Hay đâu cầu ứng cũng kỳ,
Bỗng xui Trịnh-chúa tạm di ra ngoài.
Vũ-công một giấc hiên-mai,
Mơ-màng dường thấy phong tài đế-vương .
Tinh-kỳ nhã-nhạc lạ nhường,
Thái-bình nghi-vệ rõ-ràng chẳng ngoa.
Sáng mai vừa mới tỉnh ra,
Duy-Diêu xảy đến chơi nhà lạ sao?
Thấy người mà nghiệm chiêm-bao,
Mới hay trẫm-triệu ứng vào tự-nhiên.
Nghe lời Trịnh mới phù lên,
Hiển-tông từ ấy chịu truyền nối ngôi.
4. Trịnh-Doanh và Trịnh-Sâm dẹp loạn
Vận Lê đến lúc suy đồi,
Chắp tay rủ áo lặng ngồi mặc ai.
Gặp khi nhiều việc chông-gai,
Loạn trong Ba-phủ, giặc ngoài bốn phương
Văn-thần có kẻ phấn-dương ,
Phạm-công Đình-Trọng gồm đường lược-thao .
Phao-sơn trỏ ngọn cờ đào,
Nguyễn-Cừ đã phá, Nguyễn-Cầu cũng tan.
Nguyễn-Phương cứ Độc-tôn-sơn ,
Tuyên, Hưng là đất, lâm-man là nhà.
Trịnh-vương quyết-chí xông-pha,
Huyệt-sào quét sạch, binh xa mới về.
Quyền-gian kế-tập quen lề ,
Trịnh-Sâm lại cũng sính nghề vũ-công.
Mạnh-thiên hang thẳm núi cùng,
Hãy còn Hoàng-Chất lâm-tùng ẩn thân.
Sai Đoàn Nguyễn-Thục đem quân,
Cùng rừng săn thú một lần mới thanh .
Lại toan dẹp cõi Trấn-ninh,
Chỉn e địa thế, dân tình chưa quen.
Địa đồ ai khéo vẽ nên,
Thu ngoài man-cảnh về bên khuyết-đình .
Gần xa đã tỏ tình-hình,
Mới sai chư-tướng đề binh đánh liền,
Chiềng-quang thành-lũy vững bền.
Bồ-chông núi cả cũng nên hiểm trời.
Biến đâu trửu-dịch lạ đời!
Nửa đêm mở lũy cho người tiến sang.
Bởi mưu Ngũ-Phúc chiêu hàng
Nguyễn-Thiều trong lại đem đàng nội-công .
Vậy nên Duy-Mật thế cùng,
Hỏa-viêm một phút cô-dung cũng liều.
5. Trịnh-Sâm đánh chúa Nguyễn
Cậy công Trịnh mới thêm kiêu,
Càng đầy đức-sắc , càng nhiều ác-cai ,
Vu-oan nỡ đặt nên lời,
Để cho thái-tử thiệt tài thông-minh.
Phúc-uy chuyên-tiếm một mình.
Mạo giầy điên-đảo , nghĩa danh còn gì?
Thế mà vạc cả duy-trì ,
Bởi tiên-liệt-thánh Nam-Kỳ Nối ngôi.
Nền danh-phận, đạo vua tôi,
Gian-hùng mất vía đứng ngồi sao an.
Bây-giờ có giặc Tây-san,
Ở trong lại có Phúc-Loan lộng-hành .
Thừa cơ Trịnh mới sai binh,
Đưa thư vào trước kể tình ngoại-thân .
Rằng: " Toan trừ đứa lộng-thần ,
Cùng nhau quét sạch bụi trần cõi Tây ."
Lá cờ theo ngọn gió bay,
Thừa hư trực-để vào ngay nhà-Hồ .
Phúc-Loan đem lại hiến-phù ,
Trịnh-binh nhân thế tràng-khu dưới thành.
Đôi bên lập lũy phân-dinh,
Trầm-than mấy trận quan-binh hiểm-nghèo.
Độ quân nó bắc phù-kiều ,
Thúy-hoa phất-phới qua đèo Hải-vân.
Quảng-nam đồn-trú lục-quân ,
Trong Tây ngoài Trịnh, xa gần với ai?
Thuyền rồng vào bến Đồng-nai,
Long-hưng còn đợi cơ trời có khi.
6. Trịnh-Sâm hỏng mưu thoán-đoạt
Gió thu lần úa cành Lê,
Ác bay chưa biết đỗ về nhà ai.
Ngụy Tây gắm ghé mặc ngoài,
Trịnh-Sâm trong lại sai người cầu-phong.
Vũ-Trần-Thiệu kể là trung,
Mặt tuy ứng-mệnh , nhưng lòng vẫn kiên.
Động đình xa vượt bè tiên ,
Trên trời dưới nước tấm nguyền sạch trong.
Biểu-tiên phó ngọn đuốc hồng,
Ngậm cười thề với chén nồng , cho xuôi.
Làm cho vỡ mật gian-hồi ,
Mà người chìm nổi trong đời thẹn riêng.
7. Đặng-Thị-Huệ lộng-quyền
Xoay vần hay có khuôn thiêng ,
Càng già cỗi ác, càng nghiêng sóng tình.
Tuyên-phi là gái khuynh-thành ,
Đem bề ân-ái chuyên vành phúc-uy.
Cướp quyền đích-trưởng dựnh bè đồng-mông
Yêu-cơ khí diễm càng nồng.
Khiến nên Trịnh-Khải sinh lòng âm-mưu.
E khi sự thế đáo-đầu ,
Ước cùng các trấn đều vào giúp công
Điển-thư có đứa hầu trong,
Tin lòng nên mới ngỏ cùng Ngô-Nhâm .
Người sao chẳng chút lương-tâm!
Khoa-danh đã nhục, quan-trâm cũng hoài!
Lòng riêng tham đắm mùi đời,
Phụ tình thầy tớ , cãi lời phụ-thân
Quyết đem sự ấy củ-trần ,
Làm cho Trịnh-Khải một lần châu-liên.
Xuân Quỳnh (1942-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 23767
22/12/2014 10:35
Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa ...
Bà tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại làng La Khê, xã Văn Khê, ven thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.
Lưu Quang Vũ (1948-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 26041
22/12/2014 10:35
Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 - 29 tháng 8 năm 1988) là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam.
Ông sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở phường Hải Châu, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ
Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai[1] Lưu Quỳnh Thơ.
Đồ Phồn (1911-1990) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 46212
22/12/2014 10:34
Bùi Huy Phồn (16 tháng 12 năm 1911 - 31 tháng 10 năm 1990) là nhà thơ, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Ông có các bút danh: Đồ Phồn, Bùi Như Lạc, Cười Suông, Việt Lệ, Ấm Hai, Lý Ba Lẽ, BHP.
Bùi Huy Phồn sinh ngày 16 tháng 12 năm 1911 tại Phố Đầm, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc của ông ở làng Liên Bạt, xã Mai Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Cha của Bùi Huy Phồn là một nhà nho, chi trưởng họ "Đại Bùi".
Ông nghỉ hưu, mất ngày 31 tháng 10 năm 1990 tại Hà Nội.
Ân phúc
Lượt xem: 37769
21/12/2014 13:02
Ở núi rừng thương rừng núi
Ai ngờ các bạn nhớ thương tôi
Tôi ở trong này buồn bã lắm
Tấm thân còn mang nặng nợ đời
Bài học
Lượt xem: 24067
21/12/2014 13:01
Trời mưa đường vắng thầy đến lớp
Một chuyến đò ngang, gió chao nghiêng
Những đôi mắt tròn đen ngóng đợi
Tiếng reo mừng ấm áp tình thương
Bạn tôi
Lượt xem: 31510
21/12/2014 13:01
Sống cùng những điều không thực
Gửi thân mình cho hư không
Bay trên muôn phương trời đất
Tặng nơi nơi những đóa hồng
Sống cùng những điều không
Biển đêm
Lượt xem: 21604
21/12/2014 13:00
Những chiếc lá vàng trước ngõ
Đã rơi từ chiều hôm kia
Người khách từ miền nào đó
Chờ chi một tiếng tiễn đưa
Buổi chiều có thực
Lượt xem: 24436
21/12/2014 12:59
Xóm nhà nằm bên bờ sông
Con thuyền đậu bên bờ đất
Buổi chiều, mặt trời gần khuất
Chút hoe vàng trên sóng nước lao xao
Buồn
Lượt xem: 15496
21/12/2014 12:59
Bỗng dưng buồn đến lạ lùng
Đám mây vô định giữa lưng chừng trời
Bỗng dưng buồn đến lặng người
Bạn xưa đâu giữa cõi đời mênh mông
Chiều bên sông
Lượt xem: 20563
21/12/2014 12:58
Thuyền ai về bến đậu
Lơ lửng dòng sông trôi
Chiều trời mưa lất phất
Ai xui ai nhớ người
Hiển thị 161 - 170 tin trong 2284 kết quả