nguồn : http://vi.wikipedia.org
Bích Khê (1916-1946), tên thật là Lê Quang Lương; là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam thời tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông còn ký bút hiệu Lê Mộng Thu khi sáng tác thơ Đường luật.
Bích Khê sinh ngày 24 tháng 3 năm 1916 tại xã Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông là con thứ chín trong một gia đình nho học yêu nước. Ông nội nhà thơ là Lê Trọng Khanh đỗ Cử nhân năm Tự Đức thứ 21 (1868), làm quan đến chức Viên ngoại lang Viện cơ mật. Trước tình hình nhà Nguyễn bất lực, hèn yếu, từng bước đầu hàng thực dân Pháp, ông cáo quan về nhà, rồi không bao lâu sau đã tuẫn tiết, để khỏi cộng tác với Nguyễn Thân đánh phá phong trào Cần Vương, khi viên quan thân Pháp này ép ông ra làm Tham biện sơn phòng Nghĩa – Định (Quảng Ngãi – Bình Định). Cha nhà thơ là Lê Quang Dục, cũng đã từng tham gia phong trào Đông Du và các hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục hồi đầu thế kỷ 20,...[1]
Thuở nhỏ, Bích Khê học tiểu học ở Phước Lộc và Đồng Hới, học trung học ở Huế, rồi ra Hà Nội học ban tú tài nhưng nửa chừng bỏ dở.
Năm 1931, 15 tuổi, ông đã biết làm thơ Đường luật, ca trù. Năm 1934, cùng người chị ruột tên Ngọc Sương vào Phan Thiết học thêm và mở trường dạy học tư. Năm 1936, chị Ngọc sương bị mật thám Pháp bắt, trường đóng cửa, Bích Khê trở lại quê nhà.
Năm 1937, bị bệnh phổi, sau khi điều trị trở về lên sống trên núi Thiên Ấn thuộc Quảng Ngãi, ông lại ngược xuôi trên một chiếc thuyền quanh các ngả Sa Kỳ - Trà Khúc. Năm 1938, ông lại cùng chị Ngọc Sương (khi ấy đã được thả) vào Phan Thiết mở trường dạy học, được vài năm lại bị chính quyền Pháp ra lệnh đóng cửa.
Năm 1941, Bích Khê dạy học ỏ Huế. Năm 1942, bệnh phổi tái phát, ông trở về Thu Xà thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 17 tháng 1 năm 1946, Bích Khê lìa bỏ cõi đời và cõi thơ tại Thu Xà lúc 30 tuổi.
Trước khi đến với Thơ mới, một thời gian dài (1931-1936), Bích Khê đã viết ca trù, thơ Đường luật, và đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới...Sau 1937, ông chuyển hẳn sang làm "thơ mới" do sự tác động của Hàn Mặc Tử và chịu nhiều ảnh hưởng của nhà thơ vắn số này...
Các sáng tác của Bích Khê gồm:
Bốn tập thơ và một tập tự truyện chưa xuất bản, gồm:
Người lưu giữ thơ Bích Khê đầy đủ nhất là thi sĩ Quách Tấn. Năm 1971, Quách Tấn viết và cho xuất bản cuốn Đời Bích Khê. Năm 1975, ông cho in Thơ Bích Khê (Nxb Nghĩa Bình, 1988) và Bích khê tuyển tập (Hà Nội, 1988)...
Không có tuyên ngôn, nhưng trong tập Tinh huyết, các bài như: Mộng cầm ca, Đôi mắt, Xuân tượng trưng, và đặc biệt là bài Duy tân[3] thể hiện khá rõ quan niệm sáng tác thơ của Bích Khê, trích:
Trong lời tựa tập thơ Tinh huyết của Bích Khê, Hàn Mặc Tử viết:
Theo Hoài Thanh và Hoài Chân thì Bích Khê có những câu thơ hay nhất Việt Nam, như:
Hay:
Nhưng liền sau đó hai tác giả thú nhận:
GS. Nguyễn Huệ Chi nhận xét:
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, thì:
Bích Khê và Hàn Mặc Tử là hai số phận có những nét tương đồng: cả hai đều từ thơ cũ (thơ Đường luật) chuyển sang thơ mới, đều mắc bệnh nan y, đều tài hoa và chết trẻ.
Năm 1935, Hàn Mặc Tử ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm, cháu Bích Khê, nên Hàn biết người cậu trẻ này. Buổi gặp gỡ giữa hai thi sĩ diễn ra khá nhạt nhẽo. Mãi đến năm 1937, khi Bích Khê đọc được những sáng tác của Hàn trong tập Đau thương (bản đánh máy), ông mới thực sự cảm phục mà thư từ qua lại.
Gần cuối năm 1938, Bích Khê gửi cho Hàn Mặc Tử nhiều thơ, bị trả lại kèm theo lời khiêu khích mỉa mai (cốt làm cho chàng tức). Ông xé nát tập thơ đó và thề là Trong sáu tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện làm thi sĩ nữa'. Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật nẩy thiên tài của chàng ra...chỉ trong vòng ba tháng thôi, chàng đã viết được tập thơ bằng máu huyết, tinh tủy và châu lệ, tất cả say sưa đắm đuối của một tâm hồn thi sĩ...Cuối năm 1939, tập thơ ra đời với bài tựa do Hàn Mặc Tử viết, đã gây nên một làn sóng dư luận mạnh mẽ.
Sau, Mộng Cầm có chồng, thấy Hàn Mặc Tử cứ đau khổ mãi, trong một lần ra thăm, Bích Khê tặng cho Hàn bức ảnh của ông chụp với chị Ngọc Sương rồi giới thiệu là chị mình cũng am hiểu văn chương và rất thích thơ Hàn. Đối ảnh sinh tình, Hàn Mặc Tử viết bài Người Ngọc. Trong bài, hai chữ Ngọc Sương được lồng vào thơ một cách kín đáo: Ta đề chữ ngọc trên tàu lá - Sương ở cung thiềm giỏ chẳng thôi - Tình ta khuấy mãi không thành khối - Nư giận đòi phen cắn phải môi...(khi biết chuyện, Ngọc Sương đã yêu cầu em dừng ngay trò mai mối lại).
Ngày 11 tháng 11 năm 1940, Bích Khê như người mất hồn vì sự ra đi của Hàn mặc Tử - người bạn thơ mà ông hết lòng mến yêu [9].
Và theo Trần Thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử mất (1940), Trường thơ Loạn bắt đầu tan rã. Mặc dù Yến Lan, Chế Lan Viên và Bích Khê vẫn chơi thân với nhau, song không còn ai tha thiết với việc duy trì hoạt động Trường thơ. Nó còn tồn tại một thời gian nữa, rải rác trong các sáng tác của Bích Khê và kết thúc cùng với sự qua đời của "người công dân trung thành của vương quốc (Trường thơ Loạn)" là Bích Khê vào năm 1946[10].
Truyện Kiều 601-650 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 20838
22/08/2013 11:10
601 Duyên hội ngộ, đức cù lao.
602 Bên Tình, bên Hiếu bên nào nặng hơn?
603 Để lời thệ hải minh sơn,
604 Làm con, trước phải đền ơn sinh thành.
Truyện Kiều 651-700 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 20381
22/08/2013 11:09
651 Định ngày nạp thái vu qui.
652 Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!
653 Một lời cậy với Chung công,
654 Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
Truyện Kiều 701-750 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 16821
22/08/2013 11:08
701 “Thề hoa chưa ráo chén vàng,
702 “Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa!
703 “Trời Liêu non nước bao xa,
704 “Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Truyện Kiều 751-800 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 16356
22/08/2013 11:07
751 “Trăm nghìn gửi lại tình quân,
752 “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
753 “Phận sao phận bạc như vôi!
754 “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Truyện Kiều 801-850 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 18859
22/08/2013 11:06
801 Phòng khi nước đã đến chân,
802 Dao này thì liệu với thân sau này,
803 Đêm thu một khắc một chầy,
804 Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
Truyện Kiều 851-900 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 21292
22/08/2013 11:05
851 Giọt riêng tầm tã tuôn mưa,
852 Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình.
853 Tuồng chi là giống hôi tanh,
854 Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
Truyện Kiều 901-950 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 15038
22/08/2013 10:31
901 “Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
902 “Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.”
903 Cạn lời, khách mới thưa rằng;
904 “Buộc chân, thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
Truyện Kiều 951-1000 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 18358
22/08/2013 10:29
951 Dạy rằng: “Con lạy mẹ đây,
952 “Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia”
953 Nàng rằng: “Phải bước lưu ly,
954 “Phận hèn, vâng đã cam bề tiểu tinh.
Truyện Kiều 1001-1050 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 16516
22/08/2013 10:28
1001 Thuốc thang suốt một ngày thâu,
1002 Giấc mơ nghe đã dầu dầu vừa tan.
1003 Tú bà chực sẵn bên màn,
1004 Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
Truyện Kiều 1051-1100 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 27916
22/08/2013 10:27
1051 Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
1052 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
1053 Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
1054 ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Hiển thị 1631 - 1640 tin trong 2139 kết quả