Thơ

nguồn : http://vi.wikipedia.org

xem thêm : tác phẩm

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào năm 1930, ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1 bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa[1]. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm Số đỏGiông Tố đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam[2][3].

Nổi tiếng với giọng văn trào phúng châm biếm xã hội của mình, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam[4]. Tuy nhiên, cũng vì phong cách "tả chân" và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì "tội tổn thương phong hóa" (outrage aux bonnes moeurs)[5]. Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm in, cấm đọc vì là "tác phẩm suy đồi" tại miền Bắc Việt Nam và Việt Nam thống nhất cho đến tận cuối những năm 1980[4][6].

Thân thế và sự nghiệp

Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo (nay là thị trấn Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông lớn lên và mất tại Hà Nội. Cha ông là Vũ Văn Lân làm thợ điện ở Ga-ra Charles Boillot, mất sớm khi ông mới được 7 tháng tuổi, Vũ Trọng Phụng được mẹ là bà Phạm Thị Khách ở vậy tần tảo nuôi con ăn học[7]. Sau khi học hết tiểu học tại trường Hàng Vôi, Vũ Trọng Phụng phải thôi học để đi làm kiếm sống vào khoảng năm 14 tuổi[8]. Ông có may mắn được hưởng thụ chế độ giáo dục mới do Toàn quyền Pháp Albert Sarraut đề xướng, miễn phí hoàn toàn trong sáu năm tiểu học, và là một trong những lứa thanh niên Việt Nam đầu tiên được giáo dục bằng tiếng Phápchữ Quốc Ngữ[8], đó là nguyên nhân khiến ông luôn thần tượng nền văn hóa Pháp và là lớp nhà văn tích cực truyền bá văn học chữ Quốc Ngữ[9]. Sau hai năm làm ở các sở tư như nhà hàng Gôđa, nhà in IDEO (Viễn Đông), ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp.

Năm 1930, Vũ Trọng Phụng đã có truyện ngắn đầu tay Chống nạng lên đường đăng trên tờ Ngọ Báo. Bắt đầu ông viết một số truyện ngắn, nhưng không được chú ý. Năm 1931, ông viết vở kịch Không một tiếng vang, thì bắt đầu gây được sự quan tâm của bạn đọc. Năm 1934, Vũ Trọng Phụng mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tay Dứt tình đăng trên tờ Hải Phòng tuần báo.

Năm 1936, ngòi bút tiểu thuyết của ông nở rộ, chỉ trong vòng một năm, bốn cuốn tiểu thuyết lần lượt xuất hiện trên các báo, thu hút sự chú ý của công chúng. Cả bốn tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đêLàm đĩ đều hiện thực, đi sâu vào các vấn đề xã hội. Trong đó Số đỏ xuất sắc hơn cả, được xem như tác phẩm lớn nhất của Vũ Trọng Phụng[4], một vài nhân vật, câu nói trong Số đỏ đã đi vào ngôn ngữ đời sống hằng ngày.

Là một nhà báo, Vũ Trọng Phụng đã viết nhiều phóng sự nổi tiếng. Với phóng sự đầu tay Cạm bẫy người (1933) đăng báo Nhật Tân dưới bút danh Thiên Hư, Vũ Trọng Phụng đã gây được sự chú ý của dư luận đương thời. Năm 1934, báo Nhật Tân cho đăng Kỹ nghệ lấy Tây. Với hai phóng sự đó, Vũ Đình ChíVũ Bằng đã cho ông là một trong hàng vài ba "nhà văn mở đầu cho nghề phóng sự của nước ta". Những phóng sự tiếp theo như Cơm thầy cơm cô, Lục sì đã góp phần tạo nên danh hiệu "ông vua phóng sự của đất Bắc" cho Vũ Trọng Phụng[10].

Những tiểu thuyết và phóng sự của ông cũng nhận được nhiều ý kiến phản bác. Từ năm 1936 đến khi Vũ Trọng Phụng qua đời năm 1939, đã nổ ra cuộc tranh luận xung quanh vấn đề "Dâm hay không Dâm" trong các tiểu thuyết, phóng sự của ông[11].

Cả đời Vũ Trọng Phụng sống trong nghèo khổ. Vì còn bà nội và mẹ già nên dù lao động cật lực, ngòi bút của ông vẫn không đủ nuôi gia đình. Tuy viết về nhiều các tệ nạn, thói ăn chơi nhưng Vũ Trọng Phụng là một người đạo đức và sống rất kham khổ. Vì vậy ông mắc bệnh lao phổi. Những ngày cuối đời, trên giường bệnh ông từng phải thốt lên với Vũ Bằng: "Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết để ăn thì đâu có phải chết non như thế này"[12]. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.

Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng[13].

Tác phẩm

Bản quyền tác phẩm

Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, thời hạn bảo hộ tác quyền chỉ là 50 năm kể từ năm mất của tác giả[14], đồng nghĩa với việc đối với tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là đến hết năm 1989. Tuy nhiên, 28 tác phẩm của ông đã được Hãng Bảo hộ bản quyền tác giả VN (nay là Cục Bản quyền Tác giả Việt Nam[15]) gia hạn thời hạn bảo hộ thêm 30 năm[16], gây lúng túng về nghĩa vụ thanh toán tiền tác quyền của một số hãng chuyển thể hoặc tái sử dụng tác phẩm của ông[17].

Kịch

  1. Không một tiếng vang (1931)
  2. Tài tử (1934)
  3. Chín đầu một lúc (1934)
  4. Cái chết bí mật của người trúng số độc đắc (1937)
  5. Hội nghị đùa nhả (1938)
  6. Phân bua (1939)
  7. Tết cụ Cố (Di cảo - đăng sau khi tác giả qua đời, trên Tiểu thuyết thứ bảy số 295, ngày 3 tháng 2 năm 1940)

Dịch thuật

  • Giết mẹ (1936) - nguyên bản Lucrèce Borgia của Victor Hugo

Phóng sự

  1. Đời cạo giấy (1932)
  2. Cạm bẫy người (1933)
  3. Kĩ nghệ lấy Tây (1934)
  4. Hải Phòng 1934 (1934)
  5. Dân biểu và dân biểu (1936)
  6. Cơm thầy cơm cô (1936)
  7. Vẽ nhọ bôi hề (1936)
  8. Lục sì (1937)
  9. Một huyện ăn Tết (1938)

Tiểu thuyết

  1. Dứt tình (1934)
  2. Giông tố (1936), khi đăng trên Hà Nội báo có tên Thị Mịch.
  3. Vỡ đê (1936) - Báo Tương Lai
  4. Số đỏ (1936) - Hà Nội báo
  5. Làm đĩ (1936) - Tạp chí Sông Hương
  6. Lấy nhau vì tình (1937)
  7. Trúng số độc đắc (1938)
  8. Quý phái (1937, đăng dang dở trên Đông Dương tạp chí - bộ mới)
  9. Người tù được tha (Di cảo)

Truyện ngắn

  1. Chống nạng lên đường (1930)
  2. Một cái chết (1931)
  3. Bà lão lòa (1931)
  4. Con người điêu trá (1932)
  5. Quyền làm bố (1933)
  6. Cuộc vui ít có (1933)
  7. Hai hộp xì gà (1933)
  8. Cái hàng rào (1934)
  9. Tình là dây oan (1934)
  10. Duyên không đi lại (1934)
  11. Thầy lang bất hủ (1934)
  12. Ông đừng lầm (1934)
  1. Sao mày không vỡ, nắp ơi? (1934)
  2. Sư cụ triết lý (1935)
  3. Rửa hờn (1935)
  4. Bộ răng vàng (1936)
  5. Hồ sê líu hồ líu sê sàng (1936)
  6. Mơ ngày Tết (1936)
  7. Tết ăn mày (1936)
  8. Lỡ lời (1936)
  9. Người có quyền (1937)
  10. Cái ghen đàn ông (1937)
  11. Lòng tự ái (1937)
  12. Đi săn khỉ (1937)
  1. Máu mê (1937)
  2. Tự do (1937)
  3. Lấy vợ xấu (1937)
  4. Một con chó hay chim chuột (1937)
  5. Một đồng bạc (1939)
  6. Đời là một cuộc chiến đấu (1939)
  7. Bắt vích (1939)
  8. Ăn mừng (1939)
  9. Gương tống tiền (không rõ năm viết)
  10. Đoạn tuyệt (không rõ năm viết)
  11. Từ lý thuyết đến thực hành (không rõ năm viết)
  12. Cái ghen đàn ông

chú thích

Các tác phẩm khác

Tây tiến Lượt xem: 33001
20/12/2014 18:35
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Thơ tặng ông lang Lượt xem: 22835
20/12/2014 18:34
Gian khổ đường ta ta cứ đi
Vững tâm theo kháng chiến trường kỳ
Trắng trong nguyền giữ lòng cam thảo
Son sắt càng thơm dạ quế chi

Thu quê ai Lượt xem: 26687
20/12/2014 18:33
Như cảnh đã vào thu sớm
Da rợn từng cơn, núi đổ chiều
Lá mía, tàu cau rũ héo
Vàng, ôi vàng hắt hiu !

Tiễn bạn Lượt xem: 23689
20/12/2014 18:32
Tặng anh vài giòng chữ
Hẹn sau này gặp nhau
Mùa thu miền kháng chiến
Vẫn giống thu năm nào

Tiểu sử Lượt xem: 26193
20/12/2014 18:32
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội). Năm 1947, đại đôi trưởng đoàn quân Tây tiến.

Trắc ẩn Lượt xem: 30052
20/12/2014 18:30
Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau ?
Đòi phen số mệnh cũng cơ cầu
Người đi mang nửa hồn đơn lẻ
Tôi về hoài vọng một đôi câu

Trông bạn Lượt xem: 26525
20/12/2014 18:30
Nhà anh chân núi đá
Tre xanh ven lối vườn
Mẹ già đọc sách cổ
Quí người mấy ai hơn

Ánh sao khuê Lượt xem: 35329
20/12/2014 16:40
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)

ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Lê Thánh Tôn

Ba họ - bao nhiêu người?
Bao đầu rụng tru di buổi ấy?
Dòng thơ - dòng máu chảy
Sáu thế kỷ rồi đâu dễ vơi.

Lời thơ - lời sấm Lượt xem: 22920
20/12/2014 16:38
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

Biển xanh thành nương dâu
thơ báo trước việc đời năm thế kỷ
thiên chức nhà thơ với cõi trần đến thế
hành tinh này còn có ở nơi đâu?

Đá vọng phu Lượt xem: 32064
20/12/2014 16:37
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748)

Mỗi chinh phụ, một câu thơ hóa đá
hồn vọng phu còn tỏa khói sương
trăm năm hào kiệt phi xương
lệ rơi thấm giấy dễ thường chưa khô!

Hiển thị 311 - 320 tin trong 2147 kết quả