Thơ

1801 Tiểu thư đón cửa giã giề,
1802 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803 Nhà hương cao cuốn bức là,
1804 Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805 Bước ra, một bước, một dừng,
1806 Trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
1807 Phải rằng nắng quáng, đèn loà.
1808 Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc sinh?
1809 Bây giờ tình mới rõ tình,
1810 Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai!
1811 Chước đâu có chước lạ đời!
1812 Người đâu mà lại có người tinh ma!
1813 Rõ ràng thật lứa đôi ta,
1814 Làm ra con ở, chúa nhà, đôi nơi!
1815 “Bề ngoài thơn thớt nói cười,
1816 “Mà trong nham hiểm giết người không dao.
1817 “Bây giờ đất thấp, trời cao,
1818 “Ăn làm sao, nói làm sao, bây giờ?”
1819 Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ,
1820 Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời,
1821 Sợ uy, dám chẳng vâng lời,
1822 Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
1823 Sinh đà phách lạc hồn siêu:
1824 “Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
1825 “Nhân làm sao đến thế này?
1826 “Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!”
1827 Sợ quen, dám hở ra lời,
1828 Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
1829 Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
1830 “Mới về, có việc chi mà động dong?”
1831 Sinh rằng: ” Hiếu phục vừa xong,
1832 “Suy lòng trắc Dĩ, đau lòng chung thiên!”
1833 Khen rằng: “Hiếu tử đã nên!
1834 “Tẩy trần, mượn chén giải phiền đêm thu”
1835 Vợ chồng chén tạc chén thù,
1836 Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
1837 Bắt khoan, bắt nhặt, đến lời,
1838 Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.
1839 Sinh càng như dại, như ngây,
1840 Giọt dài, giọt ngắn, chén đầy, chén vơi.
1841 Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười,
1842 Cáo say, chàng đã tính bài lảng ra.
1843 Tiểu thư vội thét: “Con Hoa!
1844 “Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn!”
1845 Sinh càng nát ruột tan hồn.
1846 Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay!
1847 Tiểu thư cười nói tỉnh say,
1848 Chửa xong cuộc rượu, lại bày trò chơi.
1849 Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài,
1850 “Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!”

Các tác phẩm khác

Nắng phai Lượt xem: 11476
18/08/2013 15:36
Biết có còn chăng chút nắng phai
Gió mưa xóa hết nợ lưu đày
Ngày đêm mong ngủ ôm gối mẹ
Chẳng nợ ai cũng chẳng phiền ai!

Nhớ Tú Xương Lượt xem: 15620
18/08/2013 15:34
Nghĩ lại thương ông đến bất bình
Số phận lung trung điểu bách thanh
Ông Nghè ông Cống kinh chữ nghĩa
Quan Pháp quan Nam sợ thanh danh

Thơ tặng vợ Lượt xem: 13353
18/08/2013 15:32
Không phải vợ ông Trần Tế Xương
nhà thơ có hai bàn tay trắng
có bãi xa thân cò cánh mỏng
tiếng eo sèo như sóng dậy trên sông

Tự cười mình - Ii Lượt xem: 10495
18/08/2013 15:25
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi...
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.

Tự cười mình - I Lượt xem: 13251
18/08/2013 15:24
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mặt thời lơ láo, mắt thời xanh
Vuốt râu nịnh bợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Ta chẳng ra chi Lượt xem: 14437
18/08/2013 15:22
Nếu có khôn ngoan đã vợ nhờ,
Dại mà nhờ vợ, vợ làm ngơ.
Sáng nem, bữa tối đòi ăn chả,
Nay kiệu, ngày mai lại giở cờ.

Ông Cử thứ năm Lượt xem: 11015
18/08/2013 15:21
Ông cử thứ năm, con cái ai ? (1)
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai !

Phố hàng Song Lượt xem: 11980
18/08/2013 15:19
Ở phố Hàng Song thật lắm quan, (1)
Thành thì đen kịt, đốc thì lang (2)
Chồng chung vợ chạ, kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin, nọ chú Hàn.

Trần Tế Xương (Tú Xương) Lượt xem: 8191
18/08/2013 15:17
Tiểu sử
Trần Tế Xương lúc nhỏ bố mẹ đạt tên là Trần Duy Uyên. Sinh ngày 10 - 8 năm Canh Ngọ (5 - 9 - 1870 Dương lịch) ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh (nay thuộc phố hàng nâu Nam Ðịnh). Lớn lên tự là Mặc Trái, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Ông đậu Tú Tài năm Giáp Ngọ (1894) nên người đời thường gọi ông là Tú Xương.

Tự trào Lượt xem: 10900
18/08/2013 15:12
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành (1)
Mắt thời lơ láo mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh

Hiển thị 331 - 340 tin trong 484 kết quả