1351 “Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
1352 “Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
1353 “ở trên còn có nhà thông,
1354 “Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?
1355 “Sá chi liễu ngõ, hoa tường,
1356 “Lầu xanh, lại bỏ ra phường lầu xanh!
1357 “Lại càng dơ dáng dại hình,
1358 “Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng.
1359 “Thương sao cho vẹn thì thương,
1360 “Tính sao cho vẹn mọi đường thì vâng.”
1361 Sinh rằng: “Hay nói đè chừng,
1362 “Lòng đây, lòng đấy, chưa từng hay sao?
1363 “Đường xa chớ ngại Ngô, Lào,
1364 “Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
1365 “Đã gần chi có điều xa,
1366 “Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều.”
1367 Cùng nhau căn vặn đến điều,
1368 Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
1369 Nỉ non đêm đến tình dài,
1370 Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
1371 Mượn điều trúc viện thừa lương.
1372 Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
1373 Chiến, hoà sắp sẵn hai bài,
1374 Cậy tay thầy thợ, mượn người dò la.
1375 Bắn tin đến mặt Tú bà,
1376 Thua cơ, mụ cũng cầu hoà, dám sao!
1377 Rõ ràng của dẫn, tay trao,
1378 Hoàn lương một thiếp, thân vào cửa công.
1379 Công tư đôi lẽ đều xong,
1380 Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
1381 Một nhà sum họp trúc mai,
1382 Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.
1383 Hương càng đượm, lửa càng nồng;
1384 Càng sôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen.
1385 Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
1386 Sân ngô cành bích đã chen lá vàng.
1387 Giậu thu mới nảy giò sương,
1388 Gối yên đã thấy xuân đường tới nơi.
1389 Phong lôi nổi trận bời bời,
1390 Nặng lòng e ấp, tính bài phân chia.
1391 Quyết ngay biện bạch một bề,
1392 Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!
1393 Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
1394 Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu.
1395 Rằng: “Con biết tội đã nhiều,
1396 “Dẫu rằng sấm sét, búa rìu cũng cam.
1397 “Trót vì tay đã nhúng chàm,
1398 “Dại rồi còn biết khôn làm sao đây?
1399 “Cùng nhau vả tiếng một ngày,
1400 “Ôm cầm, ai nỡ dứt dây cho đành!
Nhớ Tú Xương
Lượt xem: 15620
18/08/2013 15:34
Nghĩ lại thương ông đến bất bình
Số phận lung trung điểu bách thanh
Ông Nghè ông Cống kinh chữ nghĩa
Quan Pháp quan Nam sợ thanh danh
Thơ tặng vợ
Lượt xem: 13353
18/08/2013 15:32
Không phải vợ ông Trần Tế Xương
nhà thơ có hai bàn tay trắng
có bãi xa thân cò cánh mỏng
tiếng eo sèo như sóng dậy trên sông
Tự cười mình - Ii
Lượt xem: 10495
18/08/2013 15:25
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi...
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Tự cười mình - I
Lượt xem: 13251
18/08/2013 15:24
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mặt thời lơ láo, mắt thời xanh
Vuốt râu nịnh bợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Ta chẳng ra chi
Lượt xem: 14437
18/08/2013 15:22
Nếu có khôn ngoan đã vợ nhờ,
Dại mà nhờ vợ, vợ làm ngơ.
Sáng nem, bữa tối đòi ăn chả,
Nay kiệu, ngày mai lại giở cờ.
Ông Cử thứ năm
Lượt xem: 11015
18/08/2013 15:21
Ông cử thứ năm, con cái ai ? (1)
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai !
Phố hàng Song
Lượt xem: 11980
18/08/2013 15:19
Ở phố Hàng Song thật lắm quan, (1)
Thành thì đen kịt, đốc thì lang (2)
Chồng chung vợ chạ, kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin, nọ chú Hàn.
Trần Tế Xương (Tú Xương)
Lượt xem: 8191
18/08/2013 15:17
Tiểu sử
Trần Tế Xương lúc nhỏ bố mẹ đạt tên là Trần Duy Uyên. Sinh ngày 10 - 8 năm Canh Ngọ (5 - 9 - 1870 Dương lịch) ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh (nay thuộc phố hàng nâu Nam Ðịnh). Lớn lên tự là Mặc Trái, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Ông đậu Tú Tài năm Giáp Ngọ (1894) nên người đời thường gọi ông là Tú Xương.
Tự trào
Lượt xem: 10900
18/08/2013 15:12
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành (1)
Mắt thời lơ láo mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh
Vô tình
Lượt xem: 9651
18/08/2013 10:51
Vô tình anh gặp em
Rồi vô tình thương nhớ
Đời vô tình nghiệt ngã
Nên chúng mình yêu nhau
Hiển thị 341 - 350 tin trong 493 kết quả