Thơ

1301 Lạ cho cái sóng khuynh thành,
1302 Làm cho đổ quán xiêu đình, như chơi!
1303 Thúc sinh quen thói bốc rời,
1304 Trăm nghìn đổ một trận cười như không!
1305 Mụ càng tô lục chuốt hồng,
1306 Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê,
1307 Dưới trăng quyên đã gọi hè,
1308 Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
1309 Buồng the phải buổi thong dong,
1310 Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
1311 Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà,
1312 Dầy dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên!
1313 Sinh càng tỏ nét càng khen,
1314 Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.
1315 Nàng rằng: “Vâng biết lòng chàng,
1316 “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.
1317 “Hay hèn, lẽ cũng nối điêu,
1318 “Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
1319 “Lòng còn gửi áng mây vàng,
1320 “Hoạ vần, xin hãy chịu chàng hôm nay.”
1321 Rằng: “Sao nói lạ lùng thay!
1322 “Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?”
1323 Nàng càng ủ dột thu ba,
1324 Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:
1325 “Thiếp như hoa đã lìa cành,
1326 “Chàng như con bướm liệng vành mà chơi.
1327 “Chúa xuân đành đã có nơi,
1328 “Vắn ngày, thôi chớ dài lời làm chi!”
1329 Sinh răng: “Từ thuở tương tri,
1330 “Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non.
1331 “Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
1332 “Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.”
1333 Nàng rằng: “Muôn đội ơn lòng,
1334 “Chút e bên thú, bên tòng dễ đâu.
1335 “Bình-khang nấn ná bấy lâu,
1336 “Yêu hoa, yêu được một màu điểm trang.
1337 “Rồi ra lạt phấn phai hương,
1338 “Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
1339 “Vả trong thềm quế, cung trăng,
1340 “Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.
1341 “Bấy lâu khăng khít giải đồng,
1342 “Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
1343 “Vẻ chi chút phận bèo mây,
1344 “Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
1345 “Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
1346 “Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
1347 “Như chàng có vững tay co,
1348 “Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
1349 “Thế trong dù lớn hơn ngoài,
1350 “Trước hàm sư tử gửi người đằng la.

Các tác phẩm khác

Nắng phai Lượt xem: 11476
18/08/2013 15:36
Biết có còn chăng chút nắng phai
Gió mưa xóa hết nợ lưu đày
Ngày đêm mong ngủ ôm gối mẹ
Chẳng nợ ai cũng chẳng phiền ai!

Nhớ Tú Xương Lượt xem: 15620
18/08/2013 15:34
Nghĩ lại thương ông đến bất bình
Số phận lung trung điểu bách thanh
Ông Nghè ông Cống kinh chữ nghĩa
Quan Pháp quan Nam sợ thanh danh

Thơ tặng vợ Lượt xem: 13353
18/08/2013 15:32
Không phải vợ ông Trần Tế Xương
nhà thơ có hai bàn tay trắng
có bãi xa thân cò cánh mỏng
tiếng eo sèo như sóng dậy trên sông

Tự cười mình - Ii Lượt xem: 10495
18/08/2013 15:25
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi...
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.

Tự cười mình - I Lượt xem: 13251
18/08/2013 15:24
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mặt thời lơ láo, mắt thời xanh
Vuốt râu nịnh bợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Ta chẳng ra chi Lượt xem: 14437
18/08/2013 15:22
Nếu có khôn ngoan đã vợ nhờ,
Dại mà nhờ vợ, vợ làm ngơ.
Sáng nem, bữa tối đòi ăn chả,
Nay kiệu, ngày mai lại giở cờ.

Ông Cử thứ năm Lượt xem: 11015
18/08/2013 15:21
Ông cử thứ năm, con cái ai ? (1)
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai !

Phố hàng Song Lượt xem: 11980
18/08/2013 15:19
Ở phố Hàng Song thật lắm quan, (1)
Thành thì đen kịt, đốc thì lang (2)
Chồng chung vợ chạ, kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin, nọ chú Hàn.

Trần Tế Xương (Tú Xương) Lượt xem: 8191
18/08/2013 15:17
Tiểu sử
Trần Tế Xương lúc nhỏ bố mẹ đạt tên là Trần Duy Uyên. Sinh ngày 10 - 8 năm Canh Ngọ (5 - 9 - 1870 Dương lịch) ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh (nay thuộc phố hàng nâu Nam Ðịnh). Lớn lên tự là Mặc Trái, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Ông đậu Tú Tài năm Giáp Ngọ (1894) nên người đời thường gọi ông là Tú Xương.

Tự trào Lượt xem: 10900
18/08/2013 15:12
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành (1)
Mắt thời lơ láo mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh

Hiển thị 341 - 350 tin trong 494 kết quả