Thơ

1251 Nỗi lòng đòi đoạn xa gần,
1252 Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
1253 Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
1254 Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
1255 Dặm ngàn nước thẳm, non xa,
1256 Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
1257 Sân hoè đôi chút thơ ngây,
1258 Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
1259 Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260 Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
1261 Khi về hỏi liễu Chương-đài,
1262 Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay!
1263 Tình sâu, mong trả nghĩa dày,
1264 Hoa kia đã chắp cây này cho chưa?
1265 Mối tình đòi đoạn vò tơ,
1266 Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
1267 Song sa vò võ phương trời,
1268 Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
1269 Lần lần thỏ bạc ác vàng,
1270 Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!
1271 Đã cho lấy chữ hồng nhan,
1272 Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân!
1273 Đã dày vào kiếp phong trần,
1274 Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
1275 Khách du bỗng có một người,
1276 Kỳ Tâm họ Thúc, cũng nòi thư hương.
1277 Vốn người huyện Tích, châu Thường,
1278 Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri.
1279 Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
1280 Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.
1281 Trướng tô giáp mặt hoa đào,
1282 Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa?
1283 Hải đường mơn mởn cành tơ,
1284 Ngày xuân càng gió, càng mưa, càng nồng!
1285 Nguyệt hoa, hoa nguyệt, não nùng,
1286 Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng!
1287 Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
1288 Một dây một buộc, ai giằng cho ra?
1289 Sớm đào, tối mận, lân la,
1290 Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
1291 Dịp đâu may mắn lạ dường!
1292 Lại vừa gặp khoảng xuân đường về quê.
1293 Sinh càng một tỉnh mười mê,
1294 Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
1295 Khi gió gác, khi trăng sân,
1296 Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ.
1297 Khi hương sớm, khi trà trưa,
1298 Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đàn.
1299 Miệt mài trong cuộc truy hoan,
1300 Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.

Các tác phẩm khác

Thấy dễ mà khó Lượt xem: 9812
18/08/2013 15:39
Lớp 12 lớp càng cao
Khuyên nhau gắng học cớ sao hay lười.
Học rồi giúp ích cho đời
Đừng như Chiêu Thống cỗng người hại dân.

Nắng phai Lượt xem: 11470
18/08/2013 15:36
Biết có còn chăng chút nắng phai
Gió mưa xóa hết nợ lưu đày
Ngày đêm mong ngủ ôm gối mẹ
Chẳng nợ ai cũng chẳng phiền ai!

Nhớ Tú Xương Lượt xem: 15596
18/08/2013 15:34
Nghĩ lại thương ông đến bất bình
Số phận lung trung điểu bách thanh
Ông Nghè ông Cống kinh chữ nghĩa
Quan Pháp quan Nam sợ thanh danh

Thơ tặng vợ Lượt xem: 13335
18/08/2013 15:32
Không phải vợ ông Trần Tế Xương
nhà thơ có hai bàn tay trắng
có bãi xa thân cò cánh mỏng
tiếng eo sèo như sóng dậy trên sông

Tự cười mình - Ii Lượt xem: 10478
18/08/2013 15:25
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi...
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.

Tự cười mình - I Lượt xem: 13234
18/08/2013 15:24
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mặt thời lơ láo, mắt thời xanh
Vuốt râu nịnh bợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Ta chẳng ra chi Lượt xem: 14419
18/08/2013 15:22
Nếu có khôn ngoan đã vợ nhờ,
Dại mà nhờ vợ, vợ làm ngơ.
Sáng nem, bữa tối đòi ăn chả,
Nay kiệu, ngày mai lại giở cờ.

Ông Cử thứ năm Lượt xem: 11010
18/08/2013 15:21
Ông cử thứ năm, con cái ai ? (1)
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai !

Phố hàng Song Lượt xem: 11979
18/08/2013 15:19
Ở phố Hàng Song thật lắm quan, (1)
Thành thì đen kịt, đốc thì lang (2)
Chồng chung vợ chạ, kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin, nọ chú Hàn.

Trần Tế Xương (Tú Xương) Lượt xem: 8173
18/08/2013 15:17
Tiểu sử
Trần Tế Xương lúc nhỏ bố mẹ đạt tên là Trần Duy Uyên. Sinh ngày 10 - 8 năm Canh Ngọ (5 - 9 - 1870 Dương lịch) ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh (nay thuộc phố hàng nâu Nam Ðịnh). Lớn lên tự là Mặc Trái, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Ông đậu Tú Tài năm Giáp Ngọ (1894) nên người đời thường gọi ông là Tú Xương.

Hiển thị 341 - 350 tin trong 495 kết quả