Thơ

Cùng bạn đọc
Có thể bạn cùng lứa với tôi, ta cùng chung nẻo đường ra trận.
Hay bạn thuộc lớp người chỉ biết chiến tranh qua sách qua phim.
Có thể bạn đọc tôi từ thủa lên miền Tây, từ thủa Mẹ đào hầm.
Ðến những lần bị qui là "chống Ðảng".
Nếu hôm nay vì đọc tôi mà bạn lây khổ nạn.
Bạn có oán tôi không?
Xin được cảm thông
Và xin được hy vọng
Thơ tôi còn chút nào ấm nóng
Dù một chữ một câu giúp bạn vững lòng.
Ðà Lạt 1997

Thơ ơi thơ !
Tuổi thơ ta: chiến tranh
Tuổi trẻ ta: chiến tranh
Tuổi già ta: áp bức
Thơ ơi thơ ! giông bão dồn trong ngực !
1993

Thơ tặng anh Năm Hộ
Vòng tay đồng chí giang ra thành còng sắt
Lưỡi đồng chí nỉ non thành lưỡi rắn phun người
Ngoài bảy mươi mới chợt bừng mở mắt
Trước đảo điên sự đời.
18.3.1994

Vào, ra
Tặng một người ra đảng
Thủa ấy vào đây là chuốc mọi hiểm nguy
Cho mọi người thực sống
Và chính mình thực sống.
Giờ anh ra, chẳng chút vấn vương gì
Chốn nghiêm xưa, nay sặc mùi xôi thịt
Xì xụp tín đồ thờ chỗ ngồi trên hết.
Chỉ xót bao đời dân
Cặm cụi tâm thành, biết được cảnh này chăng?
1996

Quỉ dữ bảo nhau
(Cẩm nang tối mật)
Chủ nghĩa này chủ nghĩa kia
Chẳng qua cũng thế đôi hia ta xài
Rách mòn cứ vá lai rai
Xài chắc dài dài là món nhân dân
Tay đè miệng tụng cho nhuần
Thì yên chí lớn vững chân ngai mình.
1996

Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn
Tặng Vũ Thư Hiên, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự

Xuân hổn hển ngực đồi cỏ thắm
Ðà lạt dậy mùa hoa
Anh nghiến răng trong phòng thẩm vấn
Giữa ban ngày mà ngập đêm đen.
Những câu hỏi làm anh lộn mửa
- Bài thơ này anh gửi cho ai?
- Ai gửi cho anh bài này bài nọ?
Trái tim thơ muốn nổ chuổi cười dài !...
Thật dễ quá đầu môi yêu Tổ Quốc
Ðây tình yêu như máu cuộn không lời
Người quằn quại người nát thây lầm đất
Vẫn người đi, người tiếp mãi bên người.
Tổ Quốc hỡi tình chi đau đớn vậy
Con yêu người, ngục tối nuốt trời xanh
Ôi Tổ Quốc vào tay quỉ dữ
Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình.
Con đối diện những tia nhìn cú vọ
Cả một thời xung trận lại trào sôi
Ðôi cánh thơ vẫy vùng trong bão tố
Tiếng hát tự do trong biếc mãi dâng đời.
Xuân Hè 97

Cay đắng thay...
Cái guồng máy nhục mạ con người
Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất
Ù lì quay
Quay
Thao thao bài đạo đức
Liệu mấy ai còn ngây?
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này.
1997

Hí trường
Lũ thây sống trên hí trường hí hố
Diễn văn và tuyên bố
Ðêm vui còn dài dài
Ngon mắt và mùi tai
Hậu trường có gì xôm không nhỉ?
Cuộc sát phạt vào màn hay ho
Ðồng chí ăn thịt đồng chí
Nhạc hùng càng nổi to.
1977

Một thoáng phố phường
Dùi cui vung dọc phố
Mẹ già táo tác gánh rau
Chân run té nhào giữa lộ
Còi hú, mẹ ơi dậy mau
Cho rộng đường xe "đầy tớ".
1997

Gửi một nhà thơ đàn anh
Tưởng bạn nghìn dặm thơ
Hóa vòng vo nhảy nhót
Trong cái lồng rất to
Tự đan bằng tiếng hót.
1997

Ơi thiên thai
Thiên thai của anh đây chăng
Những tháng năm
Những tháng năm
Ngắc ngoải
Hồn tắc nhạc
Thân tàn
Mắt dại
Cái huân chương
Báo hiệu liệt giường
Cái nấm mồ
Cao sang
Muốn sánh cùng kiệt tác
Có bù đắp nổi chăng
Những tháng năm
Hồn anh tắc nhạc?
Ơi thiên thai
Ðất nước khôn nguôi khóc hận một thiên tài.
1997

Óc tim này chẳng ai cho
"Ðảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước ngẩng đầu mà bay"
Tố Hữu
Óc tim này chẳng ai cho
Tự mình chiêm nghiệm mà lo phận mình
Một đời, một cõi nhân sinh
Thẳng lưng dẫu chạm thiên đình chẳng sao
Bùn nhơ tự chín tầng cao
Ngẩng đầu là thấy thiên tào mặt mo
Óc tim này chẳng ai cho
Thong dong mà sống tự do tự mình.
1997

Mừng
Thơ anh hồi giờ vẫn thế mà thơ
Sao chúng rọi tìm như tìm chất nổ
Chợt mừng thầm bởi biết rằng chúng sợ
Khi chạm vào thấy lửa trong thơ
Và nếu lòng dân là biển cỏ
Khô xác rợn mình réo tự do...
1997

Ðừng quên em
Học theo Paul Eluard
Dù đi đâu về đâu
Dù chân trời góc bể
Dù đứng đâu ngồi đâu
Dù vui vẻ âu sầu
Ðừng quên em anh nhé !
Ðừng quên em, đừng quên
Dù ai ngăn ai dỗ
Dù bữa ăn giấc ngủ
Dù ngổn ngang nổi niềm
Ðừng quên một niềm Em:
Tự Do
Anh có thấy từng giờ
Lại nhận tối hậu thư
Máu ròng tươi từng chữ
Biết chăng ai gửi đó?
Chính thư em -
Tự Do
1997

Ta và chúng
Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống
Hõi nhân dân hãy đứng cả lên
Marat
(Tố Hữu dịch)
Vì ta cúi nên ta nhìn chúng lớn
Ta thẳng lưng thấy chúng cũng thường thôi
Và chính lúc chúng mang phồng mắt trợn
Lại là khi chúng sợ sắp tiêu đời.
1997

(1) Thơ Hồ Chí Minh 1942 (Trong tập "Nhật ký trong tù")

Mặt nạ
Ngoác mồm hô cởi trói
Thò tay chẹn họng thơ
Cái mặt nạ lở lói
Rơi nhớp cả bùn nhơ.
1997

Nhưng chính phút này
Chúng muốn chặn ta từ trong lồng ngực
Những câu thơ còn bập bẹ ầu ơ
Nhưng chính phút này thơ ta vụt hát
Tung trời bài Tự Do !
1997

Chiến tranh và hòa bình
I
- Các đồng chí đêm nay ta xuất kích
- Chúng tôi đã sẵn sàn
Họ lao về phía địch
Cả đại đội ra đi
Không một ai trở về
II
- Các đồng chí, đêm nay ta dzui dzẻ
- Hé hé!
- Mau các em đang chờ
- Hơ hơ!
Loáng thoáng phố phường đoàn xe "đầy tớ".
1997

Vòng hoa đao phủ
Nhớ các thiên tài bị đày đọa
Ðang hát bị chẹn cổ
Tắt nhạc đến hết đời
Giết xong một thiên tài
Hắn dâng hoa trước mộ
Hoa đao phủ ngạo cười
Giết anh thêm lần nữa.
1997

Ðường thơ này...
- Ðường thơ này lắm truân chuyên
Mà đeo đẳng mãi tới niên kiếp nào?
- Lắm truân chuyên lắm ngọt ngào
Một dòng lật tẩy, Thiên tào đủ vui.
1997

Báo động
Tiếng thơ ai hiu hắt
Suốt đêm ngày sầu than
Nhiễm hồn ai èo oặt
Tuổi xuân sớm lụi tàn
Nghe âm âm trời đất
Thơ ngũ liên đổ dồn
Căn bệnh AIDS tâm hồn
Ðang giết mòn dân tộc!
1997

Thơ viết từ xó bếp
Anh ghi vội trên tờ giấy gói thịt
Những câu thơ vừa đến bất ngờ
Miếng đậu phụ đang xào trên bếp
Mắt ngó chừng hồn vẫn đòi thơ.
Em từng biết
Vì độc lập anh đâu nề sống chết
Và bây giờ vào bếp chẳng xoàng chi
Vì tự do anh lại ra đi
Dẫu chỉ bằng đôi cánh thơ từ xó bếp.
Em bươn chải phố phường
Nuôi chồng không uốn cong ngòi bút
Anh thủ gôn xó bếp
Hầu em chăm con.
Có vui nào vui hơn
Chiều nay được tặng em
Món riêu cua món đậu chiên em thích
Và món nữa tuyệt vời là bài thơ ngỗ nghịch
Thơ giành tự do.
1997

Thơ tặng vợ hiền
Em ngồi đó, quên cả ngày tàn quên đêm khuya khoắt
Mười ngón tay, lau một thế giới dịu hiền
Những con búp bê kia muôn màu lung linh ánh mắt
Em lẳng lặng đẩy lùi cơn bão dập đời anh.
Gầm rít quanh ta cơn bão phũ phàng
Cuộc vây hãm dằng dai của mắt cú miệng hùm lưỡi rắn
Em ngồi đó, mười ngón tay lau đằm thắm
Một thế giới dịu hiền - thông điệp của hồn em.
Cái thời nhố nhăng cặn bã hóa vương quyền
Rồi lọc hết qua bàn tay em - chỉ sau cùng còn lại
Chỉ sau cùng còn lại
Một thế giới dịu hiền nâng giấc mãi thơ anh.
28.7.1997

Oan hồn dâng trĩu cả mây trời
Sớm thu này trời đất dễ thương sao
Hẵn muốn lượn với ngàn hương Ðà Lạt
Ai đó vậy mắt rưng nhìn ngan ngát
Quyến ta vào muôn nẻo tiêu dao
Nhưng không thể, không thể nào thế được
Cơn cớ gì u uẩn dựng hồn ta
Nghe tất thẩy cõi đời nung nấu uất
Trước bao nhiêu oan trái ngập sơn hà
Vâng, ngay cả giữa ngày đẹp nhất
Tôi chẳng sao nguôi nghĩ đến các người
Những thân phận mỏi mòn dập vùi oan khuất
Oan hồn dâng trĩu cả mây trời
Oan hồn dâng trĩu cả mây trời
Ðau đến bao giờ đất Việt của tôi ơi
Hận thù chất lên hận thù chồng chất
Làm sao đây, làm sao đây cho Người vượt thoát
Người thật sự anh em, Người thật sự con người.
1997

Bài thơ tháng tám
Các anh - những người Tháng Tám
Các anh đâu rồi? thấm mệt rồi chăng?
Các anh nghĩ gì sau nếp nhăn vầng trán
"Thế sự du du..." (2) thật giả nhập nhằng!...
Có lẽ nào? Có lẽ nào? lịch sử
Lại như con thò lò trong ván bài quỉ dữ
Máu nhân dân tuôn chảy đúc ngai vàng
Bạo chúa ngồi lem lẻm tụng nhân dân?
Ơi em gái Trường Sơn mười tám tuổi
Cùng đồng đội đêm nao truy điệu sốngcho mình
Và cứ thế dấn thân vào lửa dội
Em nghĩ gì sau cặp mắt kiên trinh?
Em nghĩ tới tương lai tươi thắm ngọt lành?
Tương lai ấy bây giờ tôi sống dở
Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi
Tôi bước đi trên đất nước nghẹn lời
Các anh đâu rồi?
Những người Tháng Tám
Chẳng nhẽ khoanh tay nhìn tấn trò bội phản
Dân tộc này bị vỡ nợ Tự Do?
Dân tộc từng sống chết chẳng so đo
Quyết không làm nô lệ
Sao hôm nay Người đành cam chịu thế
Mặc thân phận mình dưới ách tà gian
"Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than..."
Câu hát cũ lòng tôi rỉ máu
Kìa em gái Trường Sơn hiện hồn về nhìn tôi đau đáu
Tháng tám ơi! Tháng Tám nước non mình
Tôi lại đi, lầm lũi cuộc hành trình
Chỉ có thế thôi! Thơ
Với cường quyền
Ðối mặt
Sống trong tôi là triệu người đã khuất
Ðang thét đòi món nợ: Tự Do!
19.8.1994

(2) Trong câu thơ Ðặng Dung (Thời hậu Trần)
"Thế sự du du nại lão hà"
(Việc đời dằng dặc, khốn nỗi mình đã già)

Câu vè chợt lượm
Gậy ông này đập lưng ông
Mồm thì giảng đạo tay lòng thòng vơ
Mặt lì nên chẳng biết dơ
Lời lời đanh thép gậy giờ đập lưng
Nào ai khảo nào ai xưng
Nào ai xới đất mà tung cả đời.
1997

Tôi gởi thơ tôi vào ngọn gió cao nguyên
Tôi gửi thơ tôi vào ngọn gió cao nguyên
Mặc bao kẻ bầm gan vì một lời ngay thật
Gió cứ thổi điệu vần này chân chất
Bọn giả hình lừa đảo chớ hòng yên
Tôi gửi thơ tôi vào ngọn gió cao nguyên
Thong dong thơ bay khắp mọi miền
Ðến với muôn lòng yêu lẽ phải
Lòng mở với lòng, thơ kết duyên.
Ðà Lạt 1997

Bùi Minh Quốc
Ðà Lạt 1993 - 1997

Các tác phẩm khác

Tô Thức tên gọi Tô Đông Pha (1037-1101) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 22827
07/01/2015 17:25
Tô Thức (Chữ Hán: 苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.
Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Ông nội Đông Pha tên là Tô Tự, cha ông là Tô Tuân (蘇洵, tự là Minh Doãn, 1009-1066), mẹ ông họ Trình (?-1057) và em trai là Tô Triệt (蘇轍, tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con ông đều là những nhà thơ có tiếng.

Thanh Tùng (1935 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp Lượt xem: 23580
07/01/2015 17:14
Thanh Tùng (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1935-), tên thật là Doãn Tùng (con cụ Doãn An), sinh tại Mỹ Lộc, Nam Định, nhưng trưởng thành tại thành phố Hải Phòng. Các bài thơ nổi tiếng của ông đều viết về thành phố Hoa phượng đỏ.
Là nhà thơ Việt Nam, tác giả của bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng cùng tên.

Tạ Tỵ (1921-2004) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 23466
07/01/2015 17:08
Tạ Tỵ (1921 - 2004), tên thật là Tạ Văn Tỵ; là một họa sĩ và còn là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.
Ông sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội. Nhưng trong giấy khai sinh của ông lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn mất một năm.
Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004 (mùng 9 tháng 7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.

Quách Tấn (1910-1992) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 23906
07/01/2015 17:00
Quách Tấn (1910-1992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm 1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.
1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.

Phùng Khắc Khoan (1528-1613) - Tiểu sử và sự nghiệp Lượt xem: 28450
07/01/2015 16:54
Phùng Khắc Khoan (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự: Hoằng Phu, hiệu: Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam.
Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 tại làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tinh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm [1].
Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó.

Phan Khôi (1887-1959) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 19503
07/01/2015 16:47
Phan Khôi (潘魁, 1887-1959) là một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, về sau đứng trong trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con của Phó bảng Phan Trân (tri phủ Điện Khánh) và bà Hoàng Thị Lệ (con gái Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu).
Cuối năm 1954 hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác. Trong thời gian 1956-1957, là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, ông bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.

Phan Châu Trinh (1872–1926) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 23493
07/01/2015 16:39
Phan Châu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872–1926), hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872[1], người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, tự là Tử Cán.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn[12].

Phan Bội Châu (1867–1940) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 26240
07/01/2015 15:01
Phan Bội Châu (1867–1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San.[1] Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu.[2]Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam.
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế.

Nguyễn Vỹ (1912-1971) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 28324
07/01/2015 14:37
Nguyễn Vỹ (1912[1]-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca đương thời.
Nguyễn Vỹ sinh tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, năm 1945 lại đổi là Phổ Phong), huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Thuyên[2] từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để chống Pháp. Mẹ ông là bà Trần Thị Luyến.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh Long An)-Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.

Nguyễn Nhật Ánh (1955 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 27870
07/01/2015 10:52
Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam.

Hiển thị 31 - 40 tin trong 2256 kết quả