nguồn : http://vi.wikipedia.org
Thanh Tịnh (1911-1988), tên thật là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh), là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút danh khác của ông là: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945).
Ông sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911[1] tại xóm Gia Lạc,ven sông Hương, ngoại ô Huế.
Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán đến năm 11 tuổi, thì theo học chữ Quốc ngữ tại trường tiểu học (trường Đông Ba) và trung học (trường Pellerin của giáo hội Thiên Chúa giáo) ở Huế.
Đỗ bằng Thành chung, năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo Phong hóa, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị, Tinh Hoa...Sáng tác đầu tay của ông là truyện "Cha làm trâu, con làm ngựa" đăng trên Thần kinh tạp chí (1934).
Năm 1936, Thanh Tịnh cho xuất bản tập thơ Hận chiến trường.
Năm 1941, ông và hai bài thơ của ông ("Mòn mỏi" và "Tơ trời với tơ lòng") được Hoài Thanh- Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Thanh Tịnh làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ.
Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Sau đó, ông tham gia phụ trách đoàn kịch Chiến Thắng của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1945, ông tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau, ông thôi làm lãnh đạo, để chuyên sáng tác.
Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), và trở thành Ủy viên Ban chấp hành Hội khóa I, II.
Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, và mang cấp bậc Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam trước khi nghỉ hưu.
Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế.
Tác phẩm của Thanh Tịnh đã xuất bản:
Nhà thơ Thanh Tịnh đã được tặng thưởng:
Ngoài ra, ông còn là người chiếm giải nhất (bài Lời cuối cùng) đồng hạng với nhà thơ Phạm Đình Bách trong cuộc thi thơ tháng Hai do báo Hà Nội báo tổ chức năm 1936[2].
Khi đi học, Thanh Tịnh đã ham thích văn chương. Hai nhà văn Pháp là Alphonse Daudetiega Malebi và Guy de Maupassantalieniment có ảnh hưởng không nhỏ đến văn phong của Thanh Tịnh sau này. Tuy nhiên, ông không thành công trong lĩnh vực viết truyện dài (Xuân và sinh, 1944), nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Trước 1945, thơ ông mang phong cách lãng mạn đậm nét. Trong những bài tiêu biểu như Tơ trời với tơ lòng, Vì đàn câm tiếng, Muôn bến, Rồi một hôm...đều mượt mà, tinh tế, hàm súc nhưng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống văn hóa, tinh thần xứ Huế. Trong các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943) đều có nhiều truyện đẹp, trong sáng và gợi cảm.
Sau 1945, trong kháng chiến, Thanh Tịnh đã khai sinh ra hình thức độc tấu. Nó thường là một bài văn ngắn, có tính chất tự sự, hoặc là đề cập đến những vấn đề thời sự và xã hội. Ngôn ngữ của tấu thường giản dị pha chút dí dỏm. Cách diễn đạt thường là nói, ngâm hay hát hò chỉ là phụ... Thơ trữ tình của Thanh Tinh từ 1945 trở về sau, nhìn chung không nổi bật. Ông viết thiếu lắng đọng, thiếu tinh tế, trừ một số bài viết theo phong cách lãng mạn mà ông đã thành công trước đây...[3]
Anh là người đến sau
Lượt xem: 15390
19/12/2014 15:34
Tác giả: Thi Hạnh
Có một người em chưa nhắc cùng anh
Vì thật sự em không hề muốn nhắc
Như chuyến tàu vội đi trong khoảnh khắc
Rất thản nhiên và cũng rất tình cờ
Có đôi lần em vẫn ở trong mơ
Thầm khe khẽ nhắc tên người ấy...
Bâng khuâng
Lượt xem: 24834
19/12/2014 15:32
Tác giả: Trần Duy Kỳ
Nếu em hỏi: "Tình yêu là gì nhỉ ?"
Anh sẽ bảo rằng: "Biết trả lời sao!"
Khi vũ trụ bao la với muôn vạn vì sao
Khi tình yêu con người với trăm ngàn trắc trở
Cho người tình lỡ 2
Lượt xem: 16881
19/12/2014 15:31
Tác giả: Huyandrics
Em nghĩ gì mà lặng im không nói
Mãi âm thầm vẽ ranh giới trong nhau
Em nhẫn tâm bỏ mặc nỗi nghẹn ngào
Bỏ mặc kẻ hanh hao từng ý nghĩ
Dòng hận tủi
Lượt xem: 34433
19/12/2014 15:29
Tác giả: Nguyên Thạch
Dòng hận tủi
- Gởi người anh tôi quen ở Đồng Đăng và các cựu chiến binh miền Bắc.
Anh ngước mắt nhìn khoảng đời trống vắng
Gian khổ một thời, giờ cay đắng nỗi niềm mang
Tuổi xuân xưa…Trường Sơn tiến dọc xẻ ngang
Theo lời “Bác” xây mộng vàng hạnh phúc…
Khi chợt nghĩ tới lúc bình minh lóng lánh
Lượt xem: 20436
19/12/2014 15:28
Tác giả: Lâu Văn Mua
Khi chợt nghĩ tới lúc bình minh lóng lánh
Sao ở trong thâm tâm mình không có ý nghĩa gì?
Ngỡ như muốn chửi tục không cần sống ở trên đời
Khi mình ngủ không muốn mình dậy nữa?
Ngập trời quan họ
Lượt xem: 24577
19/12/2014 15:27
Tác giả: Vũ Kim Thanh
Quan họ gọi lúa trổ đòng
Gọi thuyền đón bạn xuôi dòng sông mơ
Gọi Trăng soi tỏ đôi bờ
Gọi trầu cánh Phượng vào thơ tỏ tình
Người em chung thủy (hát ả đào)
Lượt xem: 20722
19/12/2014 15:26
Tác giả: Đào Tiến Luyện
Anh xích lại gần em thêm chút nữa Vì tình ta em trân quí anh ơi, Đã theo em ròng rã mấy năm trời, Em không đáp, tình anh đơn độc quá.
Nguồn thơm
Lượt xem: 5
19/12/2014 15:25
Tác giả: Hàn Mặc Tử
Trí đang no và khí xuân đương khỏe,
Nhạc đương say và rượu vẫn còn thơm,
Nên muôn cánh thủy tiên chưa dám hó hé
Trong phút giây trang trọng của linh hồn.
Những chiều thân phận I
Lượt xem: 23775
19/12/2014 15:24
Tác giả: Châu Thái Lê
Này em, hãy cùng ta nâng ly rượu
nhen nhúm lòng mình tìm một chút xuân
cho ra vẻ cũng nghinh tân tiễn cựu
dù thâm tâm em có tủi hơn mừng
Qua nhà bạn cũ ở Gentilly
Lượt xem: 13724
19/12/2014 15:23
Tác giả: Nguyễn Nam Trân
Thương tiếc Tạ Trọng Hiệp
Nhà ẩn sĩ dựng bên lề cao tốc,
Tường cách âm, phố thợ nối đường ray,
Màu gạch đỏ ngả sang màu số phận,
Nắng tàn đông không níu nổi chân ngày.
Hiển thị 731 - 740 tin trong 2148 kết quả