nguồn : http://vi.wikipedia.org
Quách Tấn (1910-1992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm 1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.
Tổ tiên ông vốn là người Trung Quốc sang Việt Nam. Cha ông là Quách Phương Xuân, thông chữ Pháp; mẹ là Trần Thị Hào, giỏi chữ Hán. Anh em ông gồm 10 người nhưng chỉ còn lại ba là ông, Quách Tạo và Quách Thị Mộng Lan.
Lúc nhỏ Quách Tấn học chữ Hán. Đến 12 tuổi, ông mới bắt đầu học Quốc ngữ và Pháp ngữ tại trường Pháp Việt Quy Nhơn (nay là Quốc học Quy Nhơn), rồi đậu cao đẳng tiểu học (primaire Supérieur) năm 1929.
Sau đây là quá trình hoạt động của ông:
- 1930, làm phán sự Tòa sứ tại Tòa khâm sứ Huế, rồi đổi lên Tòa sứ Đồng Nai Thượng ở Đà Lạt.
- 1935, về làm việc tại Tòa sứ Nha Trang.
-1939, xuất bản tập thơ đầu tay: Một tấm lòng (Tản Đà đề tựa, Hàn Mặc Tử đề bạt).
- 1945, tản cư về Bình Định tham gia chống Pháp, làm thủ quỹ cho Ủy ban ủng hộ kháng chiến và Mặt trận liên hiệp quốc dân huyện Bình Khê.
- 1949, mở Trường trung học tư thục Mai Xuân Thưởng tại thôn An Chánh huyện Bình Khê.
- 1951, được trưng dụng dạy Trường trung học An Nhơn rồi Trường trung học Bình Khê.
- 1954, hồi cư về Nha Trang được tái bổ vào ngạch thư ký hành chánh.
- 1955, làm tại tòa hành chánh Quy Nhơn cho đến 1957. Tiếp theo, ông giữ chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Bình Định. Nhờ cương vị này, Quách Tấn đã can thiệp với chính quyền địa phương, chọn được một vùng đất địa thế đẹp tại Ghềnh Ráng (Quy Nhơn), rồi chuyển hài cốt người bạn tri âm là thi sĩ Hàn Mặc Tử từ nghĩa trang nhà thương phung Quy Hòa về an táng tại đây. Ít lâu sau, Quách Tấn đổi về Sở Du lịch Huế (1957-1958), Ty Kiến thiết Nha Trang (1958-1963), rồi giữ chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hòa (1963-1965)
- 1965, nghỉ hưu tại nhà số 12 đường Bến Chợ Nha Trang (gần chợ Đầm), tiếp tục viết văn làm thơ.
- 1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.
Quách Tấn lập gia đình năm 1929. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Nhiếp, hiệu Thanh Tâm, sinh trưởng tại Phú Phong, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định.
Quách Tấn Tấn tập làm thơ từ lúc học lớp đệ nhất niên trường Quy Nhơn. Lúc ra trường ông đã thông thạo các thể thơ, nhưng chính thức bước vào làng văn thơ từ năm 1932 [1]. Năm 1933, ông đã có thơ đăng trên An Nam tạp chí, Phụ nữ tân văn, Tiếng dân và Tiểu thuyết thứ bảy… Ông từng được thi sĩ Tản Đà khen khi bình bài Đến thăm vườn cũ cảm tác của ông. Tản Đà viết: Nói về bên tình thì rất lâm ly mà nói về bên tài cũng đến thế là hay[2]. Sau đây là một số tác phẩm chính của ông:
Ngoài ra ông còn 13 tập thơ chưa xuất bản.
Ngoài ra ông còn 20 tập văn chưa xuất bản.
Ông viết chung với con trai là Quách Giao các tập:
Đối với thơ, tôi (Quách Tấn) không tách biệt "mới" và "cũ". Tôi lựa thể Đường luật vì thấy thích hợp với tâm hồn mình. Vì đã lựa được con đường đi nên từ 1932 đến 1941, mặc dù phong trào Thơ Mới sôi nổi, tôi vẫn giữ thể Đường luật.[4]
Nói về phong cách sống của Quách Tấn, Nguyễn Vỹ viết:
Về sự nghiệp văn chương, tuy Quách Tấn viết nhiều thể loại, nhưng người ta chú ý đến ông là nhờ thơ, nhất là hai tập thơ đầu. Đặng Thị Hảo cho biết:
Đến hai năm sau (1941), khi thi phẩm Mùa cổ điển ra đời, thì giới yêu thơ mới bắt đầu chú ý đến thơ ông nhiều hơn. Tháng 10 năm ấy, Quách Tấn được Hoài Thanh-Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam:
Nhưng Vũ Ngọc Phan lại có ý kiến trái ngược:
Những năm gần đây, tài thơ của ông được đánh giá như sau. Trích trong Từ điển văn học (bộ mới):
Trong Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam có đoạn:
Ru mộng em hồng
Lượt xem: 20769
17/12/2014 17:18
Sầu đông không ngủ em buồn
Thương Cha nhớ Mẹ quê hương đói nghèo
Hai muà mưa nắng dấu yêu
Ruộng dưa vườn cải hẩm hiu tương cà
96. Bóng lạnh
Lượt xem: 29547
17/12/2014 17:17
Thân gửi Nguyễn Bửu Thoại & Ngọc Sương
Cánh Cửa Chân Mây đợi chết chờ
Nghìn xưa bóng lạnh hết hồn thơ
Nghìn sau khóc lấp sông dời núi
Hay khóc đòi chồng mộng cháy mơ
95. Hết hơi
Lượt xem: 21579
17/12/2014 17:16
Núi tan rừng rã mây rơi
Biển sôi trường hận sông sôi mộng lành
Hoa đau hết mật để dành
Sâu nuôi phấn dưỡng đau cành không chim!
94. Đợi chờ
Lượt xem: 17074
17/12/2014 17:15
Nhớ những chiều mưa những đợi chờ
Nghe lòng thấm lạnh hồn bơ vơ
Người yêu bé bỏng sao chưa đến
Để những con đường buồn như thơ?
93. Xanh xương
Lượt xem: 18990
17/12/2014 17:14
Nước lên nước xuống chán rồi
Câu hoài không cá hết mồi uổng công
Vui mưa buồn nắng vợ chồng
Suối lòng sông biển biển lòng trăng sao
Gọi đò quê hương
Lượt xem: 25423
17/12/2014 17:12
(Thân tặng Hoài Thương)
Giữ hương đồng luá bình yên
Cho trăng đưa gió không phiền mây bay
Vàng ru bóng nắng hoa mai
Quê nghèo còn dấu một ngày hội xuân ?
Em quê hương
Lượt xem: 27427
17/12/2014 17:10
(Thân tặng Hoài Thương)
Gọi bầy đom đóm ngây thơ
Về ru em ngủ tràn bờ tương tư...
Chong đèn đối bóng viễn du
Bóng Cha Bóng Mẹ thiên thu đi về
Ngọt ngào hư không
Lượt xem: 22365
17/12/2014 17:09
Trăm năm bóng khói áo mây
Còn không dáng ngủ hao gầy tương tư
Bụi hồng theo gió viễn du
Rong rêu mòn mỏi ao tù ngóng trông
100. Lạnh
Lượt xem: 17514
17/12/2014 17:09
Còn biết về đâu? Đã hết hơi?
Sương tàn đêm lạnh hết sao rơi
Em đi anh cũng thành nhang khói
Không thể nhờ trăng nhắn một lời...
98. Duyên quê
Lượt xem: 31776
17/12/2014 17:03
Chim xanh tha cọng lúa vàng
Bay về tổ ấm bay ngang vườn cà
Khói cơm gửi chút tình ca
Thơm cành hoa trắng la đà bóng mây
Hiển thị 1311 - 1320 tin trong 2222 kết quả