Thơ

Đau quá đòn hằn;
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên;
Tủi lều tủi chõng.

Nghĩ đến chữ "lương nhân đắc ý" (1) thêm nỗi thẹn thùng;
Ngắm đến câu "quyển thổ trùng lai" (2) nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.

Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng. (3)
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh; (4)
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ;
Chỉ vì quen lối thị thành, nên một tuổi một già, hóa ra lóng đóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng (5)

Năm vua Thành Thái mười hai;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng (6)
Kì đệ tam văn đã viết rồi;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ phật, còn kì này kì nữa là xong;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.

Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên
Ngoại hàm còn trống. (7)
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!

Thôi thời thôi:
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau ắt chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!

--------------------------------------------------------------------------------

Chú thích:

(1) Người lành đắc ý (tin tưởng vận may)
(2) Phản công lại.
(3) Xuống lõng: xuống thuyền (chơi bời, hát xướng).
(4) Ô lục soạn: Ô bằng vải nhiễu lụa.
(5) Cảnh nọng: Khoanh thịt ở cổ súc vật được làm thịt, dành cho vị chức sắc.
(6) Nơi đặt trường thi
(7) Tức bị đánh hỏng (vì phạm trường qui hoặc nộp quyển chậm)

 

Các tác phẩm khác

Mùa tựu trường lại nhớ Lượt xem: 17694
20/12/2014 16:03
Thanh Tịnh (1911-1988)

Nhớ lá thu rơi, nhớ tựu trường
nhớ hoài quê mẹ mãi sông Hương
một bức tình thư chưa gửi được
bạc đầu chưa trả nợ văn chương.

Hai lá phổi giông tố Lượt xem: 18737
20/12/2014 16:03
Vũ Trọng Phụng (1912-1939)

Hàng tỷ vi trùng "cốc"
tấn công hai lá phổi gầy
trận tuyến này
chưa thể gọi là giông tố !

Người đến hội Long Trì Lượt xem: 20438
20/12/2014 16:02
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960)

Đêm hội Long Trì chưa kịp vui
Quỳnh Hoa chưa kịp gặp văn tài
hồ rượu đã thành hồ huyết lệ
âm - dương, họa - phúc bẫy giăng cài.

Thơ bên nhà mồ Lượt xem: 18520
20/12/2014 16:01
Hàn Mạc Tử (1912-1940)

Từng phút - anh đến gần cửa huyệt
từng phút - anh tan vào cõi thiêng.

Người xứ thơ tiên Lượt xem: 24518
20/12/2014 16:00
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938)

Chùa Hương không gặp gỡ
rừng mơ chắc đã mơ?
Lời còn trong hơi thở
giai nhân cùng người thơ.

Hỏi lối vào ca dao Lượt xem: 28230
20/12/2014 15:59
Vũ Ngọc Phan (1912-1987)

Gặp đây mận mới hỏi đào
đường lên cổ tích, lối vào ca dao

Rau tần ai quẩy đi đâu Lượt xem: 15895
20/12/2014 15:59
Trần Huyền Trân (1913-1989)

Ngỡ nàng công chúa họ Trần
hóa thi sĩ quẩy rau tần lãng du...

Ngơ ngác Lượt xem: 25615
20/12/2014 15:58
Lưu Trọng Lư (1912-1991)

Từ lúc nào hỡi ngọn gió heo may
mang tâm sự thi nhân chưa tiện ngỏ
vàng trút xuống và cành sương nức nở
mặt đất hồi hộp lúc xạc xào thu.

Vầng trăng sống mòn Lượt xem: 16817
20/12/2014 15:56
Nam Cao (1915-1951)

Trăng sáng tròn như vú mộng đầy
có vơi bớt cảnh sống mòn này?

Người viết thơ khỏa thân Lượt xem: 19130
20/12/2014 15:51
Bých Khuê (1916-1946)

Câu thơ nhan sắc
chữ kết nên da ngà
hương trời đất bừng hoa
thi nhân hỡi tiếc chi vài mảnh vải?

Hiển thị 131 - 140 tin trong 1938 kết quả