Ðối diện ngọn đèn trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng đêm bắc bán cầu vần vũ trắng nơm nớp ai rình sau lưng ta nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà xa vắng núi và sông và vết rạn địa tầng nhắm mắt lại mà nhìn thăm thẳm yêu và đau quằn quại bi hùng dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng cột biên giới đóng từ thương đến nhớ ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá ai cứ sau mình lẩn quất như ma
Ai? im lặng! Ai? cái bóng! Ai? xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng bóng máu bầm đen sóng soải nền nhà thôi thì ta quay lại chuyện trò cùng cái bóng máu mê ta có một thời ta mê hát đồng ca chân thành và say đắm Ta là ta mà ta vẫn là ta
vâng - đã có một thời hùng vĩ lắm hùng vĩ đau thương, hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm vâng - một thời không thể nào phủ nhận tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ ợ lên nhồn nhột cả tim gan Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh nỗi day dứt khôn nguôi còn sạn gót chân nhói dài mỗi bước
Ai? không ai! vết bầm đen đấm ngực xứ sở nhân tình sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng Mẹ liệt sỹ gọi con đội mồ lên đi kiện ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai? không ai! vết bầm đen quều quào giơ tay xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma ma quái - ma cô - ma tà - ma mãnh. quỷ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài đêm huyễn hoặc dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác mắt ai xanh lè lạnh toát lửa ma chơi
Ai? không ai! vết bầm đen ngửa mặt lên trời xứ sở linh thiêng sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh giấy rách mất lề Tượng Phật khóc, Ðức tin lưu lạc thiện - ác nhập nhằng công lý nổi lênh phênh
Ai? không ai vệt bầm đen tọa thiền xứ sở thông minh sao thật lắm trẻ con thất học lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương tuổi thơ oằn vai mồ hôi, nước mắt tuổi thơ oằn lưng xuống chiếc bơm xe đạp tuổi thơ bay như lá ngã tư đường bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng mở mắt... bóng nhân tài thất thểu
Ai? không ai vết bầm đen cúi đầu lặng thinh xứ sở thật thà sao thật lắm thứ điếm điếm biệt thự - điếm chợ - điếm vườn. điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn vật giá tăng vì hạ giá linh hồn
Ai? không ai vết bầm đen vò tai xứ sở cần cù sao thật lắm Lãn Ông lắm mẹo lãn công giả vờ lĩnh lương giả vờ làm việc tội lỗi dửng dưng lạnh lùng gian ác vặt đạo chích thành tôn giáo phổ thông ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn buôn hàng lậu - buôn quan - buôn thánh thần buôn tuốt quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Ai? không ai vết bầm đen nhún vai xứ sở bao dung sao thật lắm thần dân lìa xứ lắm cuộc chia ly toe toét cười mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa chen nhau sang nước người làm thuê biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai? không ai vết bầm đen rứt tóc xứ sở kỷ cương sao thật lắm vua vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chỉa vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa luật pháp như đùa - như có - như không một người đi chật cả con đường
Ai? không ai vết bầm đen gập vuông thước thợ ?.?.?.
Ai? Ai? Ai? không ai vết bầm đen còng còng dấu hỏi thôi thì ta trở về còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại còn chút gì le lói ở trong lòng đôi khi nổi máu lên đồng hồn thoát xác rũ ruột gan ra đếm chích một giọt máu đem xét nghiệm tý trí thức - tý thợ cầy - tý điếm tý con buôn - tý cán bộ - tý thằng hề Phật và Ma mỗi thứ tý ty khốn nạn thân nhau nặng kiếp phân thân mặt nạ thì lột mặt nạ đi - lần lữa mãi mà chi dù dối nữa cũng không lừa được nữa khôn và ngu cũng có tính mức độ bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít mất vệ sinh bội thực tự hào sự thật hôn mê - ngộ độc tự hào bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại biết thế nhưng mà biết làm thế nào chả lẽ bây giờ bắc thang chửi bới thấy chửi bới nhẹ gian nanh cơ hội chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại lạy ông cơ chế, lạy bà tư duy xin đừng hót những điều chim chóc mãi đừng lớn lời khi dân lành ốm đói vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn đổi mới thật hay giả vờ đổi mới? máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng? thật đáng sợ ai không có ai thương càng đáng sợ không còn ai ghét ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
Ta là gì? ta cần thiết cho ai? có thể ta không tin ai đó dù có sao vẫn tin ở con người
dù có sao đừng khoanh tay khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn? những người tốt đang cần liên hiệp lại dù có sao vẫn Tổ Quốc trong lòng mạch tâm linh trong sạch vô ngần còn thơ còn dân
Ta là dân : vậy thì ta tồn tại giọt từng giọt nặng nhọc nặng nhọc thay dù có sao đừng thở dài còn da lông mọc còn chồi nảy cây
Moscow 5.1988
Quên & Nhớ
Lượt xem: 38621
07/01/2015 18:43
Tuyết ở bên trời không có em
Cả chút mưa bay quá yếu mềm
Cả cánh đồng trăng màu lục nhạt
Như chỉ mơ hồ... nhớ để quên.
Không đề
Lượt xem: 30971
07/01/2015 18:42
Em cũng giống như cơn mưa, như trận gió lúc sang hè
Làm thức tỉnh hồn tôi nhiều biến động
Tôi im lặng, bàng hoàng khi được sống
Một ngày vui không dễ nói ra lời
Hữu Loan (1916 -2010) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 22825
07/01/2015 17:38
Hữu Loan (2 tháng 4 năm 1916 - 18 tháng 3 năm 2010) là một nhà thơ Việt Nam, đồng niên với nhà thơ Xuân Diệu. Quê ông tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan [2]; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914)[3] tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi (tuổi mụ hay còn gọi là tuổi âm).
Trần Tuấn Khải (1895 –1983) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 21895
07/01/2015 17:31
Trần Tuấn Khải (4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông là: Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ.
Trần Tuấn Khải người làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi mất vì bệnh già tại cư xá Trần Quốc Toản (cư xá Liautey của Pháp), hưởng thọ 88 tuổi (1983).
Tô Thức tên gọi Tô Đông Pha (1037-1101) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 22826
07/01/2015 17:25
Tô Thức (Chữ Hán: 苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.
Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Ông nội Đông Pha tên là Tô Tự, cha ông là Tô Tuân (蘇洵, tự là Minh Doãn, 1009-1066), mẹ ông họ Trình (?-1057) và em trai là Tô Triệt (蘇轍, tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con ông đều là những nhà thơ có tiếng.
Thanh Tùng (1935 - ...) - Tiểu sử và sự nghiệp
Lượt xem: 23571
07/01/2015 17:14
Thanh Tùng (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1935-), tên thật là Doãn Tùng (con cụ Doãn An), sinh tại Mỹ Lộc, Nam Định, nhưng trưởng thành tại thành phố Hải Phòng. Các bài thơ nổi tiếng của ông đều viết về thành phố Hoa phượng đỏ.
Là nhà thơ Việt Nam, tác giả của bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng cùng tên.
Tạ Tỵ (1921-2004) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 23459
07/01/2015 17:08
Tạ Tỵ (1921 - 2004), tên thật là Tạ Văn Tỵ; là một họa sĩ và còn là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.
Ông sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội. Nhưng trong giấy khai sinh của ông lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn mất một năm.
Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004 (mùng 9 tháng 7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.
Quách Tấn (1910-1992) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 23898
07/01/2015 17:00
Quách Tấn (1910-1992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.
Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm 1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.
1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.
Phùng Khắc Khoan (1528-1613) - Tiểu sử và sự nghiệp
Lượt xem: 28440
07/01/2015 16:54
Phùng Khắc Khoan (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự: Hoằng Phu, hiệu: Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng Bùng (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam.
Phùng Khắc Khoan sinh năm 1528 tại làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tinh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Tương truyền, ông là em cùng mẹ khác cha với Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm [1].
Phùng Khắc Khoan mất năm Quý Sửu (1613), thọ 85 tuổi, được truy tặng chức Thái phó.
Phan Khôi (1887-1959) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 19491
07/01/2015 16:47
Phan Khôi (潘魁, 1887-1959) là một học giả tên tuổi, một nhà thơ, nhà văn, về sau đứng trong trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con của Phó bảng Phan Trân (tri phủ Điện Khánh) và bà Hoàng Thị Lệ (con gái Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu).
Cuối năm 1954 hòa bình lập lại, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác. Trong thời gian 1956-1957, là một trong những người thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ, ông bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.
Hiển thị 151 - 160 tin trong 2380 kết quả