Thơ

nguồn : http://sachxua.net

xem thêm : tác giả

Nguyễn Thành Long (1925 - 1991) - nhà văn, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957)

Tiểu sử

Nhà văn Nguyễn Thành Long tên thật là Nguyễn Thành Long, còn có các bút danh Lưu Quỳnh, Phan Minh Thảo. Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm 1925 tại Duy Xuyên - Quảng Nam, nguyên quán ở Quy Nhơn, Bình Định.

Ông tham gia hoạt động văn nghệ trong những năm kháng chiến chống Pháp ở Nam Trung Bộ. Sau 1954, tập kết ra Bắc, ông chuyển về sáng tác và biên tập ở các báo chí, nhà xuất bản, có thời gian còn tham gia dạy ở Trường Viết văn Nguyễn Du. Ông mất ở Hà Nội ngày 6 tháng 5 năm 1991.

Ông đã được giải thưởng Phạm Văn Đồng do Chi hội văn nghệ liên khu V  trao tặng năm 1953 cho tập bút ký "Bát cơm Cụ Hồ". Ngày 25.7.2008, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Lao động hạng Nhì.

Nhà văn Nguyễn Thành Long qua hồi ức của con gái

Nhà văn Nguyễn Thành Long cùng hai con gái: Quê Hương và Hoa Hồng (Ảnh: Gia đình nhà văn Nguyễn Thành Long cung cấp)

Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ tiếng bước chân của bố tôi bước lên cầu thang. Cái cầu thang cót két, tiếng bước chân chậm rãi của bố không lẫn vào đâu được. Dường như, ngay trong lúc đi, bố cũng nghĩ ngợi. Bố là thế, lúc nào cũng nghĩ ngợi, trăn trở, nên về mặt tinh thần, có thể nói ông không sung sướng. Ông là một người sinh ra để làm nghề văn, với một tâm hồn sâu sắc, nhạy cảm và đặc biệt tinh tế. Ông hay nói: “Làm nghề văn, tức là mang trái tim mình đi khắp nơi, nghe phản ứng của nó, và viết”. Nhưng vì ông nhạy cảm và tinh tế quá, nên khi ông “mang trái tim đi” như thế, ông sung sướng và đau khổ với những phản ứng của nó, ông nghĩ ngợi và suy tư, ông không yên ổn. Tôi còn nhớ những ngày 30 Tết, mẹ tôi tất bật với đủ thứ việc. Còn bố, ông nằm dài trên giường, mặt đầy vẻ chán đời. Mẹ hỏi: “Anh làm sao thế?”, bố bảo: “Buồn! Tổng kết cả năm mình chẳng làm được cái gì”.

Thỉnh thoảng được đi thực tế với bố, tôi thấy thật lạ. Bố bước chân vào một nhà dân, căn nhà tuềnh toàng, trên tường có bức ảnh anh bộ đội. Trong nhà, có một chị trung niên và một đứa bé. Bố chào hai người rồi ngồi xuống bàn, câu đầu tiên bố hỏi: “Anh chị ở được với nhau bao lâu thì anh đi, hả chị?”. Thế là chị ấy khóc òa, kể cho bố nghe tất cả… Tinh tế và đồng cảm, bố được người ta tin cậy và tâm sự rất dễ dàng…

Tôi may mắn có một tuổi thơ êm đềm trong một gia đình hạnh phúc. Hai chị em tôi chịu ảnh hưởng từ bố rất nhiều. Bố tôi dạy con rất kỹ, từ việc nhỏ nhặt như trải cái chiếu sao cho thẳng, cho đến những cái lớn hơn như lý tưởng, mục đích sống. Nhớ hồi Đại học, thư về nhà, đôi khi tôi viết: “Mọi việc của con đều bình thường”. Thế mà bố không bằng lòng, bố viết cho tôi: “Các con phải sống vượt lên cái bình thường. Quê hương này, đất nước này đòi hỏi các con phải như vậy”.

Bố đọc nhiều, hiểu rộng. Lúc nào, trên tay ông cũng là một quyển sách hay một tờ báo. Bố là một từ điển bách khoa của hai chị em tôi và mẹ. Bất cứ cái gì hỏi bố, bố đều trả lời cặn kẽ. Nói chuyện với bố rất thích, vì bố biết đủ thứ và phân tích rất giỏi. Bọn tôi thân với bố, có thể so mũi trêu bố, có thể nói với bố đủ thứ từ chuyện trẻ con đến những suy nghĩ nghiêm túc.

Nhà tôi cách trụ sở Hội Nhà văn có vài phố, luôn là điểm ghé chơi của các nhà văn, già có, trẻ có. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ những câu chuyện xung quanh cái bàn nước của bố. Bố và các bác các chú rủ rỉ nói với nhau chuyện văn, chuyện nghề, chuyện người, chuyện đời. Còn tôi và Hoa Hồng (TS. vật lý Nguyễn Thị Hoa Hồng) ngồi trên giường cạnh đấy, dựa lưng vào tường học bài, nhưng tai vẫn gióng lên để nghe chuyện… Bọn tôi cứ lớn lên trong không khí thấm đẫm văn học ấy, coi nghề văn, giới văn như ruột thịt của mình…

Nhà chật, xung quanh ồn ào, nên bố thường viết về đêm, khi mọi người đã ngủ. Sáng ra, bố ngủ, tôi lén đọc những dòng bố vừa viết. Lén thôi, vì bố không thích cho đọc khi chưa viết xong. Ngày ấy chưa có máy tính, bố viết xong, sửa chữa xong, thường là tôi hoặc Hoa Hồng chép lại để bố đưa bản thảo sang nhà xuất bản.

Tập kết ra Bắc, ông bà nội và các cô chú còn ở Quy Nhơn và trong Nam luôn là nỗi khắc khoải của bố. Bố đặt tên tôi là Quê Hương cũng là vì vậy. Cuối tháng 3 năm 1975, cả nhà hồi hộp từng ngày. Một chiều, các chú bên Đài Tiếng nói Việt Nam lao đến nhà: “Anh! Có lẽ ngày mai sẽ giải phóng là Quy Nhơn. Bọn em cần bài gấp”. Bố bật dậy: “Được! 5 giờ sáng ghé mình nhé”.

Đã bao năm rồi, ông mong chờ ngày này? Đêm ấy, bố thức trắng, 5 giờ sáng đặt dấu chấm cuối cùng trên bài bút ký. Sáng hôm sau, tin Quy Nhơn giải phóng và bài của bố được đọc. Sau ngày 30 tháng 4, bố và mẹ vào Nam ngay để tìm ông bà nội ngoại, còn tôi, vì đang thi đại học nên phải ở lại Hà Nội một mình. Thi xong, tôi vào Nam bằng tàu thủy cùng chú Bích Ngọc (GS. âm nhạc Bích Ngọc). Từ Đà Nẵng, hai chú cháu đi xe lam vào, ngang qua Tam Kỳ, thấy bố ngồi đọc báo trước cửa nhà ông bà ngoại. Tiễn mẹ và em ra Bắc để mẹ trả phép, tôi và bố vào Quy Nhơn, ở với bà nội và cô chú vài tuần, rồi bắt đầu một chuyến đi của hai bố con và bác Yến Lan, khắp Bình Định, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn…

Những năm cuối đời, bố bị viêm đại tràng, lâu lâu lại có cục gì đó nổi lên trên người và rất đau, nhưng đi khám khắp nơi, chẳng ai biết được bệnh gì. Những lúc bố lên cơn đau, chúng tôi thương bố lắm, nhưng chẳng làm gì được… Lúc người đi xa, tôi lại ở nơi đất khách quê người. Mãi mãi, những ký ức về bố theo chúng tôi đi khắp nơi…

Nguyễn Văn Trang (ghi)

Tác phẩm

   - Bát cơm cụ Hồ (tập bút ký, 1952)
   - Gió bấc gió nồm (tập bút ký, 1956)
   - Hướng điền (tập truyện ngắn, 1957)
   - Chuyện nhà chuyện xưởng (tập truyện ngắn, 1962)
   - Gang ra (bút ký 1964)
   - Trong gió bão (truyện, 1963)
   - Những tiếng vỗ cánh (1967)
   - Giữa trong xanh (tập truyện ngắn, 1972)
   - Nửa đêm về sáng (tập truyện ngắn, 1978)
   - Lý Sơn, mùa tỏi (tập truyện ngắn, 1981)
   - Sáng mai nào, xế chiều nào (1984)

Các tác phẩm khác

Hai lá phổi giông tố Lượt xem: 18757
20/12/2014 16:03
Vũ Trọng Phụng (1912-1939)

Hàng tỷ vi trùng "cốc"
tấn công hai lá phổi gầy
trận tuyến này
chưa thể gọi là giông tố !

Người đến hội Long Trì Lượt xem: 20454
20/12/2014 16:02
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960)

Đêm hội Long Trì chưa kịp vui
Quỳnh Hoa chưa kịp gặp văn tài
hồ rượu đã thành hồ huyết lệ
âm - dương, họa - phúc bẫy giăng cài.

Thơ bên nhà mồ Lượt xem: 18537
20/12/2014 16:01
Hàn Mạc Tử (1912-1940)

Từng phút - anh đến gần cửa huyệt
từng phút - anh tan vào cõi thiêng.

Người xứ thơ tiên Lượt xem: 24535
20/12/2014 16:00
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938)

Chùa Hương không gặp gỡ
rừng mơ chắc đã mơ?
Lời còn trong hơi thở
giai nhân cùng người thơ.

Hỏi lối vào ca dao Lượt xem: 28247
20/12/2014 15:59
Vũ Ngọc Phan (1912-1987)

Gặp đây mận mới hỏi đào
đường lên cổ tích, lối vào ca dao

Rau tần ai quẩy đi đâu Lượt xem: 15904
20/12/2014 15:59
Trần Huyền Trân (1913-1989)

Ngỡ nàng công chúa họ Trần
hóa thi sĩ quẩy rau tần lãng du...

Ngơ ngác Lượt xem: 25634
20/12/2014 15:58
Lưu Trọng Lư (1912-1991)

Từ lúc nào hỡi ngọn gió heo may
mang tâm sự thi nhân chưa tiện ngỏ
vàng trút xuống và cành sương nức nở
mặt đất hồi hộp lúc xạc xào thu.

Vầng trăng sống mòn Lượt xem: 16834
20/12/2014 15:56
Nam Cao (1915-1951)

Trăng sáng tròn như vú mộng đầy
có vơi bớt cảnh sống mòn này?

Người viết thơ khỏa thân Lượt xem: 19144
20/12/2014 15:51
Bých Khuê (1916-1946)

Câu thơ nhan sắc
chữ kết nên da ngà
hương trời đất bừng hoa
thi nhân hỡi tiếc chi vài mảnh vải?

Người say chưa tỉnh Lượt xem: 17626
20/12/2014 15:50
Vũ Hoàng Chương (1916-1978)

Đâu chỉ cuộc say trong quỹ đạo
quay vòng muôn thuở các hành tinh
thi sĩ bao người say chếnh choáng
hư vô trong vũ trụ riêng mình.

Hiển thị 321 - 330 tin trong 2127 kết quả