nguồn : http://vi.wikipedia.org
xem thêm : tác phẩm
Nguyễn Khuyến (chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝) , hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam[1]. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (阮宗起, 1796-1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (陳式湍, 1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc (陳公鐲), từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội.
Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn).
Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ (三元閼堵).
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, họ tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ,"Bạn đến chơi nhà", và 3 bài thơ hay về thu: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó để xác định vì chúng rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.
Mộng tình là thật
Lượt xem: 21429
19/12/2014 15:50
Tác giả: ThanhThanhsingle. Nguyễn Thanh Thanh
Với ta ra ngẫn vào ngơ
Sáng, trưa, chiều, tối bơ phờ nhớ ai ?
Gặp chi sau ngắn, không dài !
Ngỡ ngàng, bối rối và hay ngập ngừng
Mùa xuân tháng hai
Lượt xem: 26705
19/12/2014 15:49
Tác giả: Đỗ Hồng
Xin mến tặng người thơ chưa quen biết ttqv.
“Xin hãy tặng nhau” những gì đã mất
“Khúc giao mùa” giờ cũng nhạt dư âm
Có còn ai trong cuộc sống thăng trầm
Sẽ ngồi lại bên ta “chiều hoang vắng”
Ngày hiến chương nhà giáo
Lượt xem: 21997
19/12/2014 15:48
Tác giả: ThanhThanhsingle. Nguyễn Thanh Thanh
Hai mươi mười một ngày dương
Hiến chương nhà giáo mở đường tương lai
Việt Nam đã chọn lấy ngày
Tôn vinh sự nghiệp uốn ngay rèn người
Ngày mai không có mặt trời
Lượt xem: 22151
19/12/2014 15:47
Tác giả: Đỗ Hồng (Dohuhong)
Ngày mai tới bầu trời đầy bụi cát
Nhìn quanh ta không còn bóng loài người
Bởi tình người lâu ngày rồi cũng mất
Còn hận thù làm đất lở sông trôi
Nữ hoàng của các nữ hoàng trời sao
Lượt xem: 19251
19/12/2014 15:47
Tác giả: Lâu Văn Mua
Em như là hoa chẳng son hồng cánh phấn
Vẫn thiên hương quốc sắc
Với anh em là mĩ nhân tuyệt đại
Em như hòn lửa đưa anh vào thế giới loài chim bay
Sao mãi chỉ yêu
Lượt xem: 18871
19/12/2014 15:45
Tác giả: Nguyên Đỗ
Sao mãi chỉ yêu có một người
Chân trời góc bể chốn xa xôi
Người thương tri kỷ không hay biết
Nỗi nhớ hắt hiu xâu xé đời
Tình yêu và phước hạnh
Lượt xem: 18948
19/12/2014 15:44
Tác giả: Tiểu Minh Ngọc
Cầu xin Chúa của muôn loài,
Ban cho bạn thấy, sáng ngời Ơn Cha,
Xin cho bạn thấy bao la,
Tình yêu thương đó, vượt xa ý đời,
Tôi khách đa tình ...
Lượt xem: 20278
19/12/2014 15:43
Tác giả: Cành Cong
Tôi khách đa tình, Em giai nhân
Nghĩa là tiền kiếp đã nợ nần
Có khi ... Tôi : gã xây hồ nguyệt
Một thuở vay Em ... nợ rửa chân
Tôi khách đa tình, Em giai nhân
Nghĩa là tiền kiếp đã nợ nần
Có khi ... Tôi : gã xây hồ nguyệt
Một thuở vay Em ... nợ rửa chân
Trái tim tôi
Lượt xem: 29849
19/12/2014 15:41
Tác giả: Vietnam
Trái tim tôi có cánh
Sợ cùm gông ngục tù
Nỗi buồn thường xa lánh
Tung trời mây lãng du
Tứ phương hành hay Tống khứ hành
Lượt xem: 11193
19/12/2014 15:40
Tác giả: Vũ Đình Trường
(phóng họa "Tống biệt hành" của nữ sĩ Vi Khuê.
"Tống biệt hành" cũng là tựa đề một bài thơ của Thâm Tâm)
Hiển thị 731 - 740 tin trong 2160 kết quả