nguồn : http://vi.wikipedia.org
Nguyễn Duy (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948), là một nhà thơ hiện đại Việt Nam
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện của báo này tại phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Ông đã biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) khổ 81 cm x 111 cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.
Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì thế cứ ngấm vào người đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải giật mình suy nghĩ, nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao,.... Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt chẽ. Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt nam.
Nguyễn Duy còn có bộ 3 bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công chúng biết tới viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh. Bài thơ đầu mang tên Đánh thức tiểm lực viết từ năm 1980 đến 1982 với những suy tư về tiềm lực và tương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông đến thăm Liên Xô và đến năm 1988 mới hoàn thành mang tên "Nhìn từ xa...Tổ quốc". Bài thơ viết về những trì trệ, bất cập mà ông mắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với những câu thơ rất mạnh mẽ, "như những nhát dao cứa vào lòng người đọc" (Lê Xuân Quang). Bài thơ thứ 3 viết sau đó chục năm, mang tên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với 2 bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng hơn: những suy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.[1]
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói như sau: "Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó." [cần dẫn nguồn]
Em tặng quạt
Lượt xem: 29427
17/12/2014 11:41
Lần đầu em tặng quạt anh,
Mở ra như thể nửa vành vầng trăng.
Tay cầm phơ phất líu lăng
Nửa như gió thổi, nửa bằng chim bay.
Dài đêm thêm nhớ...
Lượt xem: 21838
17/12/2014 11:40
Mặt anh đã được em nhìn
Trăm muôn quyến luyến, triệu nghìn yêu thương;
Mặt anh giờ ở trong gương
Vắng em, như một con đường quạnh hiu
Thương mến đầu tiên
Lượt xem: 28528
17/12/2014 11:38
Đêm thanh trời đất lắng nghêng tai
Em khẽ bên anh nói một lời
"Em mấy đêm rồi không ngủ được
Bởi vì em nghĩ đến anh thôi"
Và cây đời mãi mãi xanh tươi
Lượt xem: 21904
17/12/2014 11:38
Mọi lý thuyết đều màu xám, và cây đời vĩnh viễn xanh tươi (*)
Vĩnh viễn chim ca, vĩnh viễn nắng cười;
Vĩnh viễn anh yêu em như yêu sự thật
Và cây đời mãi mãi xanh tươi:
Dỗi hờn (Dỗi)
Lượt xem: 33076
17/12/2014 11:37
Mặt trăng anh trả cho trời
Vườn hoa anh trả cho người tới thăm
Hồ Tây chiều ấy mưa dầm
Anh xin trả lại cho năm tháng dài
Cha đàng ngoài Mẹ ở đàng trong
Lượt xem: 20588
17/12/2014 11:36
Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong.
Ông đồ Nghệ đeo khăn gói đỏ
Vượt đèo Ngang, kiếm nơi cần chữ.
Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong.
Hai phía đèo Ngang: một mối tơ hồng.
Đây mùa thu tới
Lượt xem: 28552
17/12/2014 11:35
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Trăng sáng
Lượt xem: 26749
17/12/2014 11:34
Anh đứng cửa sổ trước
Thấy cành, gió đưa nhau
Anh đứng cửa sổ sau
Thấy cây long não sáng
Tứ tuyệt tương tư
Lượt xem: 28130
17/12/2014 11:33
Lâu lắm em ơi, tháng rưỡi rồi
Sao nhiều xa cách thế, em ơi!
Sớm trông mặt đất thương xanh núi;
Chiều vọng chân mây nhớ tím trời.
Ở ngoại vạn lý...
Lượt xem: 22593
17/12/2014 11:32
Ở ngoài vạn lý thương em,
Anh đi vạn lý nhìn xem chân trời!
Tấm thân vàng ngọc xa vời,
Nhớ nhà, nhớ nước, liên hồi nhớ em.
Hiển thị 1501 - 1510 tin trong 2215 kết quả