Thơ

nguồn : http://vi.wikipedia.org

xem thêm : tác phẩm

Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 17781858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.

Tiểu sử

Nguyễn Công Trứ con quan Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp:

Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.

Năm 1819[1] khi đã 41 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên ở trường thi hương trấn Nghệ An. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca.

Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…

Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên. Ông đúng là một vị quan văn - võ song toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước.

Sự nghiệp

Quân sự

Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia LongMinh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp Khởi nghĩa Nông Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Ông cũng góp nhiều công lớn trong cuộc Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845). Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.

Kinh tế

Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng thờ ông và tôn ông làm thành hoàng làng.

Thơ ca

Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó.

Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy

Hay:

Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi

Hoặc:

Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.

Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn:

Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.

Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế.

Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.

Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng . Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi:

Năm mươi năm trước, anh hai ba
(Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam)

Hoặc trong bài "Bỡn nhân tình":

Tau ở nhà tau, tau nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi nói: răng không đến?
Đến thì mi nói: đến làm chi

Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:

Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông

Ghi chú: Cây thông trong cách hiểu Nho-Khổng giáo là người quân tử.

Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi.

chú thích

Các tác phẩm khác

Nơi bác từng qua Lượt xem: 20925
20/12/2014 14:53
Nơi mẹ sinh ra con, nơi Bác từng qua
Năm tháng ấy bây giờ con chưa rõ
Tóc mẹ bạc rồi, những năm đói khổ
Kinh đô đau buồn - nơi Bác từng qua

Nỗi nhớ Lượt xem: 18451
20/12/2014 14:52
- Con là đứa hay quên
Con lớn qua bao nhiêu lần áo
Con nằm biết mấy ngày đau
Con quên...

Tháng chạp ở hồng trường Lượt xem: 17911
20/12/2014 14:51
Những viên đá đứng theo chiều nhân loại
Và tuyết bay như năm tháng bay qua
Tháng chạp, ở Hồng Trường, tôi trở lại
Nghe ngân chuông trên tháp Xpat-xkai-a..

Thưa mẹ con đi Lượt xem: 17803
20/12/2014 14:51
Giữa mùa chiến đấu
Chúng con lên đường
Con gái con trai đều đội mũ tai bèo
Con gái con trai đầu đi dép lốp

Tiễn bạn cuối mùa đông Lượt xem: 26342
20/12/2014 14:50
Gửi theo T.V.Th.X

Tiễn bạn về vùng sâu
Mùa Xuân vừa kịp đến
Rừng sâu hoa đẹp hiếm
Xin vui trong tiếng chào

Tình ca Lượt xem: 19485
20/12/2014 14:48
Đừng yêu ai, em nhé
Chỉ yêu mình anh thôi
Dẫu tất cả con trai
Bên em đều tốt đẹp

Tôi lại đi đường này Lượt xem: 14024
20/12/2014 14:16
Tôi lại đi đường này
Để đi cho đến cuối
Khi cái điều mong đợi
Đang vang ở chân trời...

Trên núi sông Lượt xem: 27528
20/12/2014 14:15
Anh hái cho em một đóa hoa trên cánh rừng này
Rồi anh gửi lại hoa vào một cánh rừng khác
Anh nhặt cho em một vỏ hàu giữa truông cát vùng sâu
Rồi anh đặt hàu trên bờ sông thượng nguồn xanh thẳm

Tuổi trẻ không yên Lượt xem: 25706
20/12/2014 14:15
Chúng ta lớn lên những năm không bình yên
Dẫu em vẫn màu áo trắng yêu tin
Đi trên đường "Mười Tám tuổi"
Dẫu anh đi quen

Vỗ hờn Lượt xem: 35533
20/12/2014 14:14
Vỗ nói làng xưa bên sông A Mong
Ngày võ xa, còn lũ bò rừng
Gương sừng đi trong rừng lau sắc
Những hố bom in đầy dấu chân

Hiển thị 431 - 440 tin trong 2181 kết quả