nguồn : http://vi.wikipedia.org
Lý Tử Tấn (tới khi đứng tuổi, ông mới đổi tên là Nguyễn Tử Tấn; 1378-1457), hiệu Chuyết Am; là quan nhà Lê sơ, và là nhà thơ Việt Nam thời Lê sơ.
Lý Tử Tấn là người ở làng Triều Đông (sau đổi là Triều Liệt), huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh huyện Thường Tín, Hà Nội). Năm 1400, ông thi đỗ Thái học sinh lúc 32 tuổi, cùng khoa với Nguyễn Trãi, thời Hồ Quý Ly, nhưng không làm quan cho nhà Hồ.
Vào khoảng cuối cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn, ông đến yết kiến nơi hành tại, được Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi), khen là người học nhiều, sai giữ chức Văn cáo tức là làm nhiệm vụ thảo công văn, giấy tờ, thư tín...
Sau đó, ông tiếp tục làm quan dưới triều nhà Lê, trải qua ba đời vua: Lê Thái Tổ (1428- 1433), Lê Thái Tông (1434-1442), Lê Nhân Tông (1443-1459), trải các chức: Thông phụng đại phu, Hành khiển Bắc đạo, Thừa chỉ viện Hàn lâm, vào hầu giảng ở tòa Kinh Diên.
Theo Từ điển Văn học (bộ mới), dưới triều Lê Thái Tổ, ông có đi sứ Chiêm Thành. Khi Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn ông đã thay Nguyễn Trãi thảo nhiều chiếu lệnh, chế cáo và thư từ [1].
Ông mất năm 1457[2], thọ 79 tuổi.
Lý Tử Tấn có Chuyết Am thi tập (chữ Hán), nhưng hiện chỉ còn 5 bài phú chép trong Quần hiền phú tập do Hoàng Tụy Phu (1414-?) sưu tập, và 73 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726-1784).
Trong 5 bài phú còn lại, nổi tiếng nhất là bài Phú Xương Giang, ca ngợi chiến thắng Xương Giang ngày 3 tháng 11 năm 1427 của nghĩa quân Lam Sơn: tiêu diệt 7 vạn quân Minh và bắt sống các tướng nhà Minh là Thôi Tụ, Hoàng Phúc... Ngoài ra, ông cũng có làm lời thông luận cho bộ Dư địa chí của Nguyễn Trãi; hiệu chính và phê điểm trong bộ Việt âm thi tập.
Đại để sáng tác của Lý Tử Tấn gồm hai phần:
Phần đầu mang tử lạc quan, tích cực của thời kỳ kháng chiến chống Minh và những năm rực rỡ của nhà Lê sơ; gồm các bài như: Hạ tiệp (Mừng thắng trận), Hạ đăng cực (Mừng vua lên ngôi), Quan duyệt võ (Xem duyệt võ), Tứ hải nhất gia (Bốn bể một nhà); và nhất là 2 bài phú: Chí Linh sơn phú (Phú núi Chí Linh) & Xương Giang phú vừa nói trên.
Phần thứ hai, ông nói đến lý tưởng sống thanh cao, thường phác họa mình là một con người sống đạm bạc, thường tự nhủ mình hãy sống theo "đạo trời", vì "đạo trời" sẽ chi phối tất cả. Ở đây còn có cái cô đơn vì nhà thơ cảm thấy chán nản trước mọi chuyện phức tạp của trường danh lợi; cho nên thơ ông có đôi chút băn khoăn, nhưng không đến mức bi phẫn. Tiêu biểu ở mảng thơ này có bài như: Hạ nhật (Ngày hạ), Sơ thu (Đầu thu), Lý Tử Tấn đề Ức trai bích (Lý Tử Tấn đề vách nhà Ức trai) Tạp hứng (2 bài)...
Về nghệ thuật, thơ và phú của Lý Tử Tấn mang phong cách bình đạm. Câu thơ thường chân chất, không khuôn sáo, không đậm nét trữ tình như Nguyễn Trãi.
Nhận xét chung về Lý Tử Tấn, Phan Huy Chú viết: "Ông tiêu dao ở các chức nhàn tản, là bậc nhà nho có tuổi thời bấy giờ. Thơ ông chuộng giản dị, phần nhiều có ý thơ cổ" (Lịch triều hiến chương loại chí); còn Lê Quý Đôn thì chép rằng "ông là người danh vọng, đức độ, kỳ cựu, túc học..." (Kiến văn tiểu lục, mục Tài phẩm).
Nhìn chung, không gian thơ của Lý Tử Tấn là một không gian nhẹ nhàng, trong tĩnh. Cái không gian như vậy chỉ có thể thấy trong thế giới tinh thần tĩnh tại Á Đông xưa. Tuy nhiên, ông vẫn là một nhà nho (ra làm quan) nhập thế, luôn làm tròn chức trách của mình, nhưng không hề bị công danh làm lụy [3].
Lý Tử Tấn làm thơ trên quan điểm thi pháp của mình. Ông nói:
|
|
Truyện Kiều 2501-2550 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 19701
21/08/2013 21:09
2501 Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
2502 Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh.
2503 Tin lời thành hạ yêu minh,
2504 Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.
Truyện Kiều 2551-2600 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 20383
21/08/2013 21:03
2551 Tin tôi, nên quá nghe lời,
2552 “Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
2553 “Ngỡ là phu quý, phụ vinh,
2554 “Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
Truyện Kiều 2601-2650 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 19079
21/08/2013 21:02
2601 Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
2602 Lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao.
2603 Nàng càng ủ liễu phai đào,
2604 Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
Truyện Kiều 3051-3100 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 14248
21/08/2013 20:58
3051 Ông rằng: “Bỉ thử nhất thì,
3052 “Tu hành, thì cũng phải khi tòng quyền.
3053 “Phải điều cầu Phật, cầu Tiên,
3054 “Tình kia, Hiếu nọ, ai đền cho đây?
Truyện Kiều 2651-2700 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 19714
21/08/2013 20:57
2651 Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
2652 Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
2653 “Người sao hiếu nghĩa đủ đường?
2654 “Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?”
Truyện Kiều 3151-3200 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 15988
21/08/2013 20:56
3151 “Những như âu yếm vành ngoài,
3152 “Còn toan mở mặt với người cho qua?
3153 “Lại như những thói người ta,
3154 “Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa.
Truyện Kiều 3201-3254 (tác phẩm có 3254 hàng)
Lượt xem: 14207
21/08/2013 20:53
3201 Khúc đâu êm ái xuân tình,
3202 ấy hồn Thục đế, hay mình đỗ quyên?
3203 Trong sao châu rỏ duềnh quyên!
3204 ấm sao hạt ngọc Lam-điền mới đông!
Chiêu hồn tử sĩ
Lượt xem: 15336
21/08/2013 20:49
Tiết tháng bảy mưa dầm xùi xụt
Lọt hơi sương lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu
Ngàn lau khảm bạc, giếng ngô rụng vàng
Văn tế thập loại chúng sinh
Lượt xem: 14038
21/08/2013 20:48
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Ngẫu hứng
Lượt xem: 19604
21/08/2013 20:46
Lau trắng nở phau, cúc chớm vàng
Lòng quê muôn dặm với đêm trường
Đẩy song gượng dậy xem trăng sáng
Bóng rợp che trùm, lấp bóng trăng.
Hiển thị 1751 - 1760 tin trong 2213 kết quả