Chương 13
Trạng, Bảng, Thám năm Nhâm Tuất
Nay trở lại non ngàn bến đổ
Dùng văn chương thổ lộ nguồn cơn
Ngậm ngùi sóng nước Côn Sơn
(1160) Ức Trai nào tỏ nỗi buồn thiên thu
Một buổi sáng âm u gió lạnh
Được lệnh vua hồi chánh tham gia
Vào ban Hội khảo kỳ ba
Mà người Chánh khảo chính là Văn Linh (61)
Lòng phấn khởi trước tình tôi chúa
Nghĩ vua hiền đã rỏ đục trong
Thấu cho những kẻ một lòng
Đem tài, đem sức gánh gồng nước non
Vội viết biểu tạ ơn Thánh thượng
Đã đem lòng rộng lượng xét suy
Biết dùng tài trí ai bì
Đúng nơi đúng chổ, đáng ghi công đầu
Bẩm Thánh thượng, ơn sâu thầm nhớ (62)
Nghĩ cho mình trí nhỏ tài sơ
Tay run, đôi mắt đã lờ
Tóc râu đã bạc, được nhờ ơn trên
Lòng còn muốn đem niềm hoài bão
Trí vẫn mơ khoác áo tạ đời
Dầu cho vật đổi sao dời
(1180) Quyết không phai lạt nghĩa Trời ơn Vua...
Mù sương sớm vui đùa trong nắng
Tiễn người rời sớm vắng hồi kinh
Trong tâm còn một chữ tình
Rồi đây sẽ gặp người mình thương yêu
Đường tuy vắng cây nhiều cảnh đẹp
Cánh lan thơm khép nép chào xuân
Lòng vui rộn rã tưng bừng
Mong mau tay bắt mặt mừng người yêu
Nguyễn Thị Lộ mỹ miều đón rước
Sớm hàn huyên chuyện trước chuyện sau
Bao nhiêu tình nghĩa rạt rào
Thương yêu như sóng ba đào cuộn dâng
Đời cách trở bao lần muốn gặp
Dạ hoài nghi còn lấp niềm đau
Hôm nay hiểu phận má đào
Thương người tiết liệt, khóa rào chờ ai
Để khen thưởng cành mai khoe sắc
Vẫn giữ lòng, khóa chặt rào sâu
Cùng nhau đưa đến giang đầu
(1200) Đỉnh cao tình ái, qua cầu yêu đương
Đêm trăng sáng mây nhường lối mộng
Cạn chén quỳnh lắng đọng tâm tư
Hỏi chồng rành rẻ ngôn từ
Tại sao Đình Hội loại trừ nữ nhi ?
Thiếp vẫn biết phú, thi sắc sảo
Định rõ ràng tâm não thí sinh
Tứ thư, chiếu, biểu... trung bình
Chăm lo học tập tiến trình vượt qua
Muốn học hỏi tài ba Tiến sĩ
Những phú, thi tuyệt mỹ cao vời
Nhờ chàng sử dụng đôi lời
Mượn dùm cho thiếp suốt đời không quên
Nguyễn Trãi biết vợ hiền tài giỏi
Sẽ chờ thời thuận lợi phân qua
Đêm nay thưởng nguyệt ngắm hoa
Tận dùng thời khắc chan hòa thương yêu...
Ban Giám khảo đặt nhiều tin tưởng
Với đề tài ảnh hưởng quốc gia
Xuân Đài Hội phú kỳ ba
(1220) Mộng Tuân muốn chỉ nước nhà yên vui
Sĩ tử được chọn thời cận đại
Hay dựa vào sách dạy cổ xưa
Miển sao lý dẩn có thừa
Văn chương như sóng nước đùa thuyền xa
Theo Chu Lễ có ba đài tượng
Chốn Linh Đài, Hoàng Thượng vái van
Cầu Trời khẩn Phật chiêu an
Nước non trù phú, dân gian thanh bình
Thời Đài dựng để dành chư chúa (63)
Đến lễ đài cầu gió cầu mưa
Cầu cho dân chúng được mùa
Hăng say xây đắp, tranh đua học hành
Phố Đài để dân lành thưởng ngoạn
Xem mây trời tản mạn bay xa
Ngẩn ngơ theo mấy cành hoa
Hân hoan theo tiếng oanh ca ngọt ngào
Với Nguyễn Trực mưa rào vướng víu (64)
Núi non còn phải chịu chào thua
Vững bền, cao mấy cũng thừa
(1240) Nếu không xây dựng cho vừa lòng dân
Xuân Đài chắc, non Tần kém thế
Xuân Đài cao, ngạo nghể dương oai
Xuân Đài bền vững thới lai
Do dân xây đấp mỗi ngày một hơn
Dân sung sướng, đài sơn đài phết
Dân yên lành, đài kết đài giăng
Nếu dân đau khổ nhọc nhằn
Đài nghiêng theo gió, đài hoằng theo giông
Phú Nguyễn Trực chiếm lòng giám khảo
Chấm đổ đầu Hội cảo kỳ ba
Nhưng người được điểm thuận hòa
Nguyễn Như Đỗ mới chính là Hội nguyên
Vì Như Đỗ gom thuyền ba hội
Ưu với bình vang dội mấy phen
Bỏ công sắm sửa sách đèn
Trau dồi kinh sử, luyện rèn phú thi
Hội chấm dứt, đáng ghi đáng thưởng
Ban chấm thi, đọc quyển chung lòng
Cùng nhau cầm chén rượu nồng
(1260) Để đem sức sống khơi dòng hăng say
Tháng giêng hết, mùng hai tổ chức
Điện Hội Anh sáng rực đèn hoa
Trầm hương nghi ngút chan hòa
Điện tiền mở rộng, chính tòa vinh quang
Ban giám khảo, hân hoan tề tựu
Đã sẵn sàng sĩ tử đứng chờ
Các quan Lễ bộ đợi giờ
Hồi chuông thứ nhứt, xếp cờ vào dinh
Khác thi Hội, thi Đình trong điện
Ban chấm thi, cùng tiến vào chầu
Hai bên Lễ Bộ đứng hầu
Y quang, phẩm phục, sắc màu đẹp tươi
Chuông kế tiếp, đón mời vua tới
Mũ xung thiêng, ngọc đới bên hông
Hoàng bào nệm ngọc thêu rồng
Ngai vàng chểm chệ, hương đồng nghiêm trang
Cùng phủ phục, các quan bái vọng
Lớp sĩ phu, xúc động tiến vào
Hân hoan như được đón chào
(1280) Đường mây rộng mở, cẩm bào thêu hoa
Viên chấp sự xướng qua tên họ
Trao thí sinh mực lọ bút nghiên
Dâng vua Văn sách thánh hiền
Xét xong thủ tục vua truyền đề thi
Các sĩ tử cúi quỳ bái nhận
Lui trở về địa phận của mình
Mỗi người bàn ghế xinh xinh
Không còn lều chỏng, đất xình giữa sân
Lễ kết thúc, Vua, thần trở gót
Các thí sinh moi óc tìm văn
Êm đềm Tìên nữ cung Hằng
Oai phong tiếng sóng Bạch Đằng vang danh
Đến chiều tối mới thành được quyển
Ban giám thi chấm tuyển người tài
Ba mươi ba, trúng văn bài (65)
Chia làm ba hạng, đủ đầy sắc sâu
Nhóm thứ nhứt, đứng đầu Nguyễn Trực
Đậu Trạng Nguyên chính thức năm nầy
Hội nguyên Như Đỗ thứ hai
(1300) Trở thành Bảng Nhãn, trí tài hiền lương
Người thứ ba là Lương Nhữ Hộc
Đậu Thám Hoa, chính tộc con nhà
Quyết đem sức học tài ba
Dạy dân in sách đúng là cha ông (66)
Đem tài trí đẹp lòng tiên tổ
Quả rỏ ràng chẳng hổ danh người
Tiến sĩ cặp đệ nhứt đời (67)
Sắc trong tô đậm, hương ngoài lan xa
Tòa Văn Miếu, gấm hoa thêu đệt
Thần rùa linh, đã kết linh bài
Từ năm mười bốn bốn hai
Ai người tiến sĩ danh tài đề tên
Nơi lịch sữ, đấp nền văn hiến
Tạo niềm tin, đường tiến mai sau
Vì dân vì nước tự hào
Quyết không để giọt lệ trào can qua
(61) Lê văn Linh, Đề điệu (Chánh chủ khảo), Triệu Thái làm Phó chủ khảo, Nguyễn Trãi, Trưởng ban Đọc quyển, gồm các bạn mới và cũ như Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Dư...
(62)Sau đây dài dòng trích dẫn tờ biểu của Nguyễn Trãi dâng vua Lê Thái Tông (theo Truyện Nguyễn Trãi của Bùi văn Nguyên) :
Thần trộm nghĩ niên tân sáu chục
Chốn triều đình chức tước ban thêm
Chín trùng lồng lộng ơn trên
Nghĩ mình thêm thẹn nỗi niềm vinh quang...
(63) vua chúa các nước chư hầu
(64) Nguyễn Trực, con cư sĩ Nguyễn Thì Trung, đã mở đầu tả đài bằng những câu : theo Bùi văn Nguyên
Vón đài nầy :
Không nền không móng
Không dựng không xây
Chẳng cần đến trăm nghìn công lao nện đắp
Chẳng phí đến muôn vàn của cải tiền tài
Chỉ cần lễ nghĩa tạo hướng đi cho mưu lược
Chỉ cần đạo đức làm cơ sở để tài bồi
Vì muôn dân cùng kéo đến
Ắt trăm họ được đón mời
Không đắp cao mà cao vút đến tận mây biếc
Không bồi lớn mà lớn, lan đến tận biển khơi
(65) Trong 33 người Tiến sĩ gồm 3 người Cặp đệ, 7 Tiến sĩ bảng chánh mà người đứng đầu là Trần Văn Huy và 23 người Tiến sĩ bảng phụ mà người đứng đầu là Ngô Sĩ Liên, chuyên về lịch sử
(66) Theo Việt Nam Danh nhân Từ điển của Nguyễn Huyền Anh, Lương Nhữ Hộc là ông tổ ở VN về in sách. Ông đã hai lần đi sứ ở Tàu và học lén được nghề in ở đấy
(67) Tiến Sĩ Cặp đệ gồm ba người : Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa
Cảnh công bố kết quả
Văn Miếu & Bia Tiến Sĩ
Huyền Minh (1969 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 22454
27/12/2014 14:09
Nhà thơ Huyền Minh, là cử nhân Văn hoá, sinh ngày 09/11/1969. Hiện là Phó Trưởng phòng Biên tập - Xuất bản kiêm Thư ký toà soạn Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Huyền Minh vốn gốc gác miền xuôi nhưng sinh ra và lớn lên ở Hà Giang nên chị rất hiểu núi non, sông suối, cỏ cây và con người Hà Giang.
Huy Cận (1919-2005) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 34911
27/12/2014 14:08
Huy Cận (1919 – 2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận; là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông là bạn tâm giao của Xuân Diệu, một nhà thơ nổi tiếng khác của Việt Nam.
Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ngày sinh hiện nay là do ông cậu của ông khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng Chạp năm Bính Thìn (dương lịch là ngày 22 tháng 1 năm 1917)[1].
Huy Cận mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội.[5]
Hữu Thỉnh (1942 -...) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 26734
27/12/2014 14:07
Hữu Thỉnh (sinh 15/2/1942), tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ Hữu, là một nhà thơ Việt Nam. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1976, Hữu Thỉnh hiện là chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (3 nhiệm kỳ liên tiếp) đồng thời kiêm nhiệm Tổng biên tập Báo Văn nghệ.
Giang Nam (1929 - ...) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 20988
27/12/2014 14:06
Giang Nam (sinh 2 tháng 2 năm 1929) là một nhà thơ Việt Nam, được biết nhiều là tác giả bài thơ Quê hương.
Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, quê quán xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa
Hiện ông nghỉ hưu và sống ở Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Ngoài thơ Giang Nam còn sáng tác văn xuôi chủ yếu là truyện, truyện ngắn.
Đồng Đức Bốn (1948-2006) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 18721
27/12/2014 14:03
Nhà thơ Đồng Đức Bốn (30 tháng 3, 1948 - 14 tháng 2, 2006)
Nhà thơ Đồng Đức Bốn được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo ở ngoại ô Hải Phòng.
Là một nhà thơ, Đồng Đức Bốn có nhiều đóng góp quan trọng trong thể loại thơ lục bát. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận xét về thơ của ông là trong khoảng 80 bài thơ, có khoảng 15 bài thơ cực hay, tài tử vô địch.
Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông mất ngày 14 tháng 2 năm 2006 tại nhà riêng ở thôn Song Mai, xã An Hồng, huyện An Hải, Hải Phòng khi ông 58 tuổi bởi bệnh ung thư phổi.
Đỗ Trung Quân (1955-....) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 21105
27/12/2014 14:02
Đỗ Trung Quân (sinh 19 tháng 1 năm 1955) là một nhà thơ Việt Nam. Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và được nhiều người yêu thích như Quê hương, Phượng hồng... Ông còn được biết đến với nhiều nghề "tay trái" khác như MC cho những chương trình ca nhạc của bạn bè ông hay làm diễn viên cho một số phim truyền hình.
Đặng Trần Côn (sinh khoảng 1710 đến 1720 - mất khoảng 1745) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 37094
27/12/2014 14:01
Đặng Trần Côn (鄧陳琨) là tác giả của Chinh phụ ngâm, kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán của Việt Nam.
Tiểu sử của Đặng Trần Côn cho đến nay biết được còn rất ít. Kể cả năm sinh năm mất cũng không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ước đoán ông sinh vào khoảng năm 1710 đến 1720, mất khoảng 1745, sống vào thời Lê trung hưng.
Đặng Trần Côn quê ở làng Nhân Mục (còn gọi làng Mọc), huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Cao Thoại Châu (1939...) -Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 18439
27/12/2014 14:00
Cao Thoại Châu tên thật là Cao Ðình Vưu, sinh năm 1939 tại Giao Thuỷ, Nam Ðịnh, di cư vào Nam năm 1954. Bút hiệu của ông được ghép từ chữ Thoại là chữ lót trong tên của người bạn gái gốc Hoa và chữ Châu trong tên tỉnh Châu Đốc mà thành. Ông còn có các bút danh khác là Tiểu Nhã, Hư Trúc.
Hiện nay nhà thơ đã nghỉ hưu, ông tiếp tục sống và sáng tác tại Long An.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 31063
22/12/2014 10:49
Nguyễn Trãi (阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋) sinh năm 1380 mất năm 1442, tại làng Chi Ngại, huyện Chí Linh (nay là thị xã, Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, người làng Chi Ngại, một nho sĩ hay chữ nhưng nghèo và mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba[2] của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán[3].
Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ và gia quyến đều bị tru di tam tộc. Vị khai quốc công thần đã kết thúc cuộc đời ở tuổi 63 trong một hoàn cảnh bi phẫn và oan khuất.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 46167
22/12/2014 10:48
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt[1], tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân cư sĩ[2], được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Hiển thị 71 - 80 tin trong 2248 kết quả