Rời khỏi kinh thành
Nguyễn Trãi thấy lòng chua xót quá
Nghĩ tuổi già, thôn dã yên thân
Chỉ mong đi cuối đường trần
Trọn lòng cùng chúa, cùng dân, cùng nhà
Sớm lo lắng cung ngà lục viện
Thương Ngọc Dao quyền biến chưa thông
Hồn như viên ngọc trắng trong
Chưa vương màu đỏ, chưa lồng màu đen
Một đêm trăng bên đèn chợp mắt
Thấy tiên đồng khuông mặt xinh tươi
Mắt đen má thắm môi cười
Vâng lời Thượng Đế dạo chơi cõi trần
Xuống trái đất làm thân quyền quý
Bước vào đời cung hỉ Khánh Phương (45)
Giật mình tỉnh giấc hoàn lương
Ngọc Dao mừng rở đốt hương khẩn cầu
Trước Thượng Đế dập đầu khấn lạy
Phù hộ con, trẻ dại thơ ngây
Đưa con qua khỏi nạn tai
(720) Vượt bao nghịch cảnh, giúp Ngài thành công (46)
Quá sung sướng mở lòng bày giải
Cùng cung nhân kể lại mộng lành
Nghĩ rằng gió mát trăng thanh
Sẽ đem no ấm yên lành khắp nơi
Nàng nào biết tai khơi nạn mở
Tiếng đồn vang thấu ở cung đình
Thị Anh nghe nói giật mình
Sợ Hoàng Tử đổ, sợ tình mình nguy
Sanh quý tử Dao phi sẽ chiếm
Trọn lòng vua cùng tiếm uy quyền
Thế là muôn sự đảo điên
Phải tìm mọi cách cho thuyền không lay
Gọi khẩn cấp chân tay nhóm hoạn
Xước, Huệ, Đăng, Đình Thắng họp bàn (47)
Bày mưu tính kế rõ ràng
Ngọc Dao hãm hại Tử Hoàng ốm đau
Trước Đức vua nàng gào nàng khóc
Bảo Ngọc Dao tàn độc hơn người
Con tôi sắp chết đến nơi
(740) Cầu xin Thượng Đế cứu người nguy nan
Con tôi sống không màng ngôi báu
Không như người tàn bạo vô lương
Thánh hoàng xin nhủ lòng thương
Trả thù con trẻ, tan xương voi dày (48)
Được như thế lòng này mới thỏa
Để ngăn ngừa lòng dạ hiểm sâu
Những người bụng chứa gươm đao
Sợ không dám trổ tài cao hại người
Ngồi ngẫm nghĩ, nực cười nhân thế
Biết làm sao cội rễ nguồn cơn
Những người gây oán gây hờn
Lại là những kẻ kéo đờn kêu ca
Vua suy nghĩ chưa ra quyết định
Nguyễn Trãi đà suy tính thiệt hơn
Tãu trình xin chúa ghi ơn
Cứu tra suy xét nguồn cơn rõ ràng
Vua ra lệnh truyền ban thầy thuốc
Rán tận tình phục dược Bang Cơ
Nhân sâm cộng với thủ ô
(760) Uống vô sẽ hết dật dờ mê man
Nguyễn Trãi muốn luận bàn cùng vợ
Không thể nào để ở chung nhau
Phải đành ngừa trước tránh sau
Phải đem người yếu bôn đào xa xôi
Nguyễn thị Lộ cho người dẩn dắt
Đưa Ngọc Dao nẻo tắt đường ngang
Tránh xa cho khỏi Trường An
Đến chùa quy ẩn, hạt tràng lần xoay (49)
Thế Sạn đạo chờ ngày khởi phát (50)
Tránh cho nàng tan tác đời hoa
Lại còn vương thể ngọc ngà
Trui rèn thể chất chan hòa thương yêu
Tóc đã bạc lại nhiều nghiệp dĩ
Nguyễn Trãi mong về nghỉ Côn sơn
Từ nay ân nghĩa đã tròn
Mong vua cứu xét để còn suy tư
Vua khôn lớn biết hư biết thực
Biết Ức Trai đáng bậc tài ba
Mong người vui hưởng tuổi già
(780) Cho xây chùa Phật để mà tỉnh tu
Nhưng dặn kỷ khi vua cần triệu
Phải tức thời lên kiệu về cung
Mau mau hội kiến cữu trùng
Để cùng bàn việc chỉnh trung nước nhà
Nghe lời phán chan hòa cởi mở
Hoa sen lòng vội nở trong tim
Côn Sơn tùng cúc vẫn tìm
Về xây Tư Phúc, trọn niềm chờ mong (51)
Khi từ biệt Thái Tông căn dặn
Hẹn sang năm lo chuẩn kỳ thi
Là mùa Tiến sĩ chính quy
Nhân tài sẽ chọn đường đi lối về
Các bạn hữu tỉ tê đưa tiễn (52)
Cùng vợ hiền đến bến Phả Lai
Để rồi tay lại cầm tay
Bạn hiền, vợ mến chia hai nẻo đường
Ông tức cảnh ngâm vang một khúc (53)
Để tỏ lòng rạo rực chờ mong
Từ đây trở lại dòng sông
(800) Khơi đầy kỷ niệm, thỏa lòng cố nhân
(45) Cung Khánh Phương là cung của Tiệp Dư Ngọc Dao
(46) mong sao con mình thành công trên bước đường dựng nước
(47) Nguyễn Thị Anh cùng nhóm hoạn quan tìm cách du cáo Ngọc Dao hảm hại Tử Hoàng
(48) Thị Anh xin vua xử tội voi dày Ngọc Dao
(49) Ngọc Dao trốn ở chùa Huy Vân
(50) Sạn Đạo, chỗ Lưu Ban dưỡng quân chờ thời
(51) Chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi về tu bổ để nhà vua đến nghỉ ngơi
(52) Các bạn Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Phan Phu Tiên, Trần thuấn Du... cùng Nguyễn Thị Lộ đã tiễn đưa ông đến ngã ba sông Thiên Đức
(53) Bài ngâm của Nguyễn Trãi trước khi chia tay cùng bạn bè và Nguyễn Thị Lộ theo Truyện Nguyễn Trãi của Bùi văn Nguyên
Ngại ở nhân gian lưới trần
Thời nằm thôn dã miễn yên thân
Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử
Viên hạc đà quen bạn dật dân
Hái cúc, ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn
Đàn cầm suối, trong tay dõi
Còn một non xanh là cố nhân
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 26320
22/12/2014 10:47
Bà Huyện Thanh Quan (chữ Hán: 婆縣清觀, 1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh; là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam[1].
Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội[2]. Thân phụ là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.
Nguyễn Du (1765 - 1820) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 23169
22/12/2014 10:47
Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; Sinh năm Ất Dậu 1765– mất năm Canh Thìn 1820) tên chữ Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm ngày sinh của ông [1][2].
Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 31568
22/12/2014 10:46
Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là nhà thơ Nôm nổi tiếng cuối thế kỷ 18, đầu thể kỷ 19 (1772-1822). Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Lê Ngọc Hân (1770-1799) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 22527
22/12/2014 10:46
Lê Ngọc Hân (chữ Hán: 黎玉忻, 1770-1799) còn gọi Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu (北宮皇后) là công chúa nhà Hậu Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, vợ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Dân gian còn lưu truyền tên gọi bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên.[1]
Lê Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại kinh thành Thăng Long [2]. Bà là con gái thứ 9 [3] của vua Lê Hiển Tông. Mẹ bà là Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, là người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn - Bắc Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội), và là con gái trưởng của ông Nguyễn Đình Giai.
Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4 tháng 12 năm 1799) thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.
Cao Bá Quát (1809 - 1855) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 27522
22/12/2014 10:46
Cao Bá Quát (chữ Hán: 高伯适; 1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương[1], và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ông là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay thuộc quận Long Biên Hà Nội.
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 19799
22/12/2014 10:46
Nguyễn Đình Chiểu (chữ Hán: 阮廷沼; 1822-1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19 [1].
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới [2], phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng [14], hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông [15].
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 22567
22/12/2014 10:46
Nguyễn Khuyến (chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝) [1], hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam[1].
Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
Tú Xương (1870 - 1907) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 27732
22/12/2014 10:45
Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương(陳濟昌), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định). Ông mất ngày 29 tháng 1 năm 1907.[1]
Tản Đà (1889-1939) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 28255
22/12/2014 10:45
Tản Đà (chữ Hán: 傘沱, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 - mất ngày 7 tháng 6 năm 1939[1]) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.
Ngô Tất Tố (1894-1954) - Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 30146
22/12/2014 10:44
Ngô Tất Tố (1894 – 20 tháng 4 năm 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954.
Ngô Tất Tố sinh năm 1893 mất năm 1954 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội).
Hiển thị 81 - 90 tin trong 2247 kết quả