Thơ

Côn Sơn Quy ẩn

Được kết quả như mong như đợi
Tài ngoại giao sánh với mưu thần
Góp công đền đáp hoàng ân
Dám đâu nghĩ đến chút phần lợi danh
*
Danh không có, lợi đành quên lãng
Sống chuỗi ngày thanh đạm muối dưa
Nhiều đêm nhìn ánh trăng khuya
(360) Hắt hiu gió thổi, đầm đìa sương rơi
*
Nghe ray rứt, bồi hồi trong dạ
Thương chồng yêu, chí cả chưa yên
Đêm đêm gói trọn ưu phiền
Quyết đem tâm sự nỗi niềm gởi trao
*
Chồng sách cũ, lệ trào khóe mắt
Giúp ích gì lúc ngặt lúc nghèo
Thương dân mưa ít nắng nhiều
Ruộng vườn hạn hán lắm điều trái ngang
*
Dân đã khổ, mình càng thêm khổ
Bao lần qua, mấy độ buồn thương
Muốn đem tâm sự chán chường
Gởi vào manh chiếu bên đường bán rong (21)
*
Sợ uy thế của chồng suy giảm
Nên đành cam cáng đáng việc nhà
Để chồng rảnh trí lo xa
Trước lo cho nước cho nhà được yên
*
Cây muốn lặng, gió quyền không lặng
Chuyện đau buồn Nguyên Hãn chưa nguôi
Lại thêm sóng gió tơi bời
(380) Phạm Văn Xão tướng, hết đời quy thiên
*
Lời dèm xiểm, thay thuyền đổi bến
Lòng Quân Vương chẳng mến thương người
Lại thêm bụng dạ hẹp hòi
Ép người trung liệt suốt đời lao lung (22)
*
Trần Nguyên Hãn mệnh chung vì Bản (23)
Phạm văn Xão tội phản vì Lê (24)
Tạo ra thảm trạng ê chề
Những ai đã quyết theo về Quân vương
*
Cùng chung chịu đau thương thống khổ
Cùng xông pha lửa đỏ tên bay
Đến khi sung sướng trên ngai
Lại quên đi hết những ngày gian nan
*
Quên những kẻ thi gan cùng giặc
Lại học đòi sớm bắt chiều tha
Vì không chứng cớ để tra
Nên đành phải thả Ông ra khỏi tù
*
Sớm chán nản công hầu khanh tướng
Về Côn Sơn vui hưởng tuổi già
Giữa vùng đất rộng bao la
(400) Nhớ nàng bán chiếu đúng là duyên thiên
*
Thấy người đẹp ông liền khẽ hỏi (25)

Nàng ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân xanh nay được bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, được mấy con ?

Thị Lộ nghe xong vội trả lời (26)

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon (27)
Cớ chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh nay độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con ?

Cành lan ở giữa núi đồi
Nhụy thơm hương thắm ai người chuốt trau
*
Viên ngọc quý không đào mà được
Cành lan xinh tha thướt dạng hình
Những đêm gió mát trăng thanh
Đem thơ mà kết mộng lành thiên thu
*
Khoảng thời gian, mây mù giăng lối
Ông về quê sớm tối phụng thờ
Bóng hình ông ngoại ngày thơ
Là cha dạy dỗ, mẹ mơ nuông chiều
*
Mẹ mất sớm, cha nhiều lận đận
Về Côn Sơn yên phận ngoại già
Sáng chiều sớm tối lân la
Thương thiên nhiên cảnh, yêu hoa lá rừng
*
Mến đèn sách ông từng trang đọc
Kinh, Tứ Thư quyết học với hành
Khi sương sớm, lúc tàn canh
(420) Quyết đem tài đức tạo danh với đời
*
Nay trở lại vùng trời thương mến
Trước bàn thờ đốt nến hương đưa
Kính hồn ngoại với mẹ cha
Giúp con qua khỏi chuyến phà khổ đau
*
Nghĩ tức tối, làm sao diệt nịnh
Bản, Khí, Hoành.. quyền bính trong tay
Chỉ lo ton hót tối ngày
Cố tìm cách hại những tay trung thần
*
May mắn thay, người thân nghĩa khí
Vẫn còn nhiều cùng chí đấu tranh
Nguyên, Tuân, Tử Tấn, Quang Minh...(28)
Quốc Hưng, Cảnh Thọ, Văn Linh mấy người
*
Họ nhứt quyết không dời tôn chỉ
Họ hợp nhau cùng ý Ức Trai
Viếng thăm những lúc nạn tai
Quyết đem sức học văn tài giúp vua

(21) Thị Lộ thấy gia đình túng kém, muốn buôn bán chiếu để nuôi gia đình như ngày xưa, trước khi gặp Nguyễn Trãi
(22) Nguyễn Trãi bị bắt cầm tù do thân thích với Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xão nhưng vì không chứng cớ nên được thả. Trần Nguyên Hãn là anh em cô cậu với Nguyễn Trãi, gọi Trần Nguyên Đán là ông nội mà Nguyễn Trãi gọi là ông ngoại.
(23) Trước khi xin về hưu, Trần Nguyên Hãn có than thở với những người thân cận là Lê Thái Tổ có tâm địa như Việt Vương Câu Tiễn nên bị gièm pha và bị bức tử bởi lủ nịnh gồm Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Bá Hoành...Ông nhảy xuống sông tự sát còn Phạm văn Xão bị khép tội phản thần và bị xử chém
(24) Lê Quốc Khí một nịnh thần có quyền thế vì là cháu gọi vua Lê Lợi bằng chú
(25) Theo Bùi Văn Nguyên trong : Truyện Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi hỏi :
Quê ở đâu ta bán chiếu gon
Trời đà về tối chửa về con ( ?)
(26) Thị Lộ trả lời : Quê ở Đông Triều bán chiếu gon
Chồng thời chửa có, hỏi gì con ?
(27) Theo Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử: Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
(28) Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn,Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Quang Minh, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Cảnh Thọ, Lê Văn Linh, Trần Thuấn Du... là những vị trung thần
Các tác phẩm khác

Mưa trong tù Lượt xem: 39626
07/01/2015 18:54
Mưa róc rách
Ngoài vách
Mưa tuôn
Suốt đêm trường

Màu tím hoa sim Lượt xem: 28722
07/01/2015 18:52
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.

Thánh mẫu hài đồng Lượt xem: 28415
07/01/2015 18:51
Nàng ngả cánh tay
còn rất nhiều ngấn sữa
cho ta gối đầu
ngay đêm đầu tân hôn

Hoa lúa Lượt xem: 40440
07/01/2015 18:49
Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa

Hoa hải đường Lượt xem: 44124
07/01/2015 18:47
Phe phẩy màu xuân ngọn gió đông
Bên thềm sương ngát, ánh trăng lồng
Canh khuya những sợ rồi hoa ngủ
Khêu ngọn đèn cao ngắm vẻ hồng.

Cái bát xinh xinh Lượt xem: 32939
07/01/2015 18:45
Mẹ cha công tác
Nhà máy Bát Tràng
Mang về cho bé
Cái bát xinh xinh

Quên & Nhớ Lượt xem: 38644
07/01/2015 18:43
Tuyết ở bên trời không có em
Cả chút mưa bay quá yếu mềm
Cả cánh đồng trăng màu lục nhạt
Như chỉ mơ hồ... nhớ để quên.

Không đề Lượt xem: 31241
07/01/2015 18:42
Em cũng giống như cơn mưa, như trận gió lúc sang hè
Làm thức tỉnh hồn tôi nhiều biến động
Tôi im lặng, bàng hoàng khi được sống
Một ngày vui không dễ nói ra lời

Hữu Loan (1916 -2010) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 22886
07/01/2015 17:38
Hữu Loan (2 tháng 4 năm 1916 - 18 tháng 3 năm 2010) là một nhà thơ Việt Nam, đồng niên với nhà thơ Xuân Diệu. Quê ông tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan; Bút danh: Hữu Loan [2]; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (theo lý lịch, còn có thông tin ông sinh năm 1914)[3] tại quê ở làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi (tuổi mụ hay còn gọi là tuổi âm).

Trần Tuấn Khải (1895 –1983) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 21926
07/01/2015 17:31
Trần Tuấn Khải (4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông là: Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ.
Trần Tuấn Khải người làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi mất vì bệnh già tại cư xá Trần Quốc Toản (cư xá Liautey của Pháp), hưởng thọ 88 tuổi (1983).

Hiển thị 11 - 20 tin trong 2246 kết quả