Thơ

An Nam Quốc Vương

Lê Thái tổ trào trung triệu tập
Để tìm người đối đáp Minh Triều
Từ khi nuốt hận trăm điều
Vẫn mong quấy rối, gây nhiều khổ đau
*
Nhứt Trương Phụ, lòng đao dạ kiếm
Một thuở nào ngự chiếm Thăng Long
Tưởng mình ngồi giữa cung rồng
Đêm vơ ngày vét vẫn không chịu dừng
*
Rồi đến lúc đường cùn phải chạy
Như chuột chùn, ếch nhái muỗi giun
Một trang dũng tướng anh hùng
Thân tàn danh liệt, ngậm gừng nuốt cay !
*
Không xấu hổ, còn bày mưu hiểm
Mong trở qua xâm chiếm Nam triều
Thấy dân đau khổ đã nhiều
(280) Nhà Minh đành phải theo chiều gián can
*
Không xâm lấn nhưng làm khó dễ
Bảo phải tìm hậu duệ nhà Trần
Hay đòi cống phẩm thêm phần
Trước đe sau dọa, mấy lần tạm phong
*
Nay sứ giả Trương Thông chuyển đạt (18)
Cùng Lý Kỳ, Vĩnh Dật đang chờ
Nhà vua giao thảo bức thư
Bang giao, lễ vật, cuộc cờ xác minh
*
Quan văn vỏ, thật tình phân giải
Nào ai hơn Nguyễn Trãi tài ba
Đã đem lý thánh lời hoa
Viết bao văn biểu sáng lòa đường mây
*
Xin Thánh Thượng đức dầy ân xá
Thừa Chỉ người tận dạ đáp đền
Quyết đem tài trí thấp hèn
Để cho Minh chúa không chèn nước ta
*
Vua nghe phải, truyền tha Nguyễn Trãi
Bỏ tước hầu, giữ lại thừa văn
Những quan một dạ trung thần
(300) Tung hô vạn tuế muôn phần hân hoan
*
Cứu Nguyễn Trãi khỏi gian nhà ngục
Các bạn bè tiếp tục chăm lo
Sợ khi mưa gió qua đò
Người ngay còn ngại sóng to giữa dòng
*
Vì công việc cần ông khẩn cấp
Vua sai người đến gặp ông liền
Bảo vua diện kiến tôi hiền
Cùng lo việc nước đến miền an vui
*
Bao ngày tháng ngậm ngùi trong dạ
Ánh dương quang chưa thỏa niềm tin
Gió mưa còn phải giữ gìn
Dám đâu phiền đến nghĩa tình chúa tôi
*
Vua tiếp rước, đón mời sâm rượu
Cùng nhâm nhi kể đủ nguồn cơn
Bảo rằng giặc loạn biên cương
Để ông phải chịu oan ương thế nầy
*
Đây ly rượu cùng say trước đã
Sau sẽ bàn sứ giả triều Minh
Đọc xong văn kiện sự tình
(320) Ông đem kiên nhẩn đối kình nóng nôn
*
Đã từ lâu, một đòn trách cứ
Vua nhà Minh vô lý tột cùng
Còn ta một dạ thủy chung
Một niềm thành khẩn, một lòng suy tôn
*
Ta theo thế, lời ôn lý luyện
Người dẫn đầu biết chuyện nói thưa
Biết câu đón nắng rào mưa
Khiêm nhường, kín đáo, đẩy đưa lòng người
*
Trần Thuấn Du một thời vang tiếng (19)
Đáng theo đoàn phúc kiến nhà Minh
Chính người gây được cảm tình
Của người đối diện, để mình yên thân
*
Du còn phải đem phần cống phẩm
Chia làm ba, hai tặng nhà vua
Một phần chia đủ cho vừa
Nửa Hoàng Thái hậu, nửa đưa Tử hoàng
*
Không phải thế chính nhân quân tử
Nhưng nên dùng để giữ nước nhà
Dầu sao nói giúp cho ta
(340) Hai người uy thế, cũng là phần hơn
*
Vua thích thú trước đòn yếm trá
Bảo thừa văn, vội vã thảo thư
Cho người kêu gọi Thuấn Du
Dặn dò kỹ lưỡng, đúng thư thi hành
*
Như kế hoạch, tánh danh đã rõ
Vua nhà Minh đành tỏ khoan hồng
Lý Kỳ cùng với Hữu Thông
Mang theo thánh chỉ sắc phong Nam Triều (20)
*
Vua Lê Lợi ra chiều sung sướng
Ngôi Quốc vương tận hưởng phương Nam
Từ đây khí chướng sơn lam
Hết canh phương bắc, mấy đàng thong dong

(18) Ba sứ giả Minh Triều gồm Lễ Bộ thị lang Lý Kỳ, Từ Vĩnh Dật và Trương Thông
(19) Phái đoàn sứ giả đi cống sứ nhà Minh gồm Trần Thuấn Du, Bùi Cầm Hỗ, Nguyễn Khả Chi. Trần Thuấn Du đậu khoa Minh Kinh năm Kỷ Dậu, ông là một trong 4 ông thông kinh bác sử thời đầu nhà Lê. Đó là Lý, Trần, Thân, Đỗ. Hai ông Lý Tử Tấn, Trần Thuấn Du ở nửa đầu thế kỷ thứ 15 và hai ông Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận ở cuối thế kỷ nầy (theo Bùi Văn Nguyên trong Truyện Nguyễn Trãi và Hoàng Công Khanh trong Vằng vặc sao khuya)
(20) Năm Tân Hợi (1431) vua nhà Minh chính thức sắc phong cho Lê Lợi làm An Nam Quốc vương
Các tác phẩm khác

Thu quê ai Lượt xem: 26692
20/12/2014 18:33
Như cảnh đã vào thu sớm
Da rợn từng cơn, núi đổ chiều
Lá mía, tàu cau rũ héo
Vàng, ôi vàng hắt hiu !

Tiễn bạn Lượt xem: 23692
20/12/2014 18:32
Tặng anh vài giòng chữ
Hẹn sau này gặp nhau
Mùa thu miền kháng chiến
Vẫn giống thu năm nào

Tiểu sử Lượt xem: 26204
20/12/2014 18:32
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội). Năm 1947, đại đôi trưởng đoàn quân Tây tiến.

Trắc ẩn Lượt xem: 30054
20/12/2014 18:30
Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau ?
Đòi phen số mệnh cũng cơ cầu
Người đi mang nửa hồn đơn lẻ
Tôi về hoài vọng một đôi câu

Trông bạn Lượt xem: 26538
20/12/2014 18:30
Nhà anh chân núi đá
Tre xanh ven lối vườn
Mẹ già đọc sách cổ
Quí người mấy ai hơn

Ánh sao khuê Lượt xem: 35340
20/12/2014 16:40
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)

ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Lê Thánh Tôn

Ba họ - bao nhiêu người?
Bao đầu rụng tru di buổi ấy?
Dòng thơ - dòng máu chảy
Sáu thế kỷ rồi đâu dễ vơi.

Lời thơ - lời sấm Lượt xem: 22933
20/12/2014 16:38
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

Biển xanh thành nương dâu
thơ báo trước việc đời năm thế kỷ
thiên chức nhà thơ với cõi trần đến thế
hành tinh này còn có ở nơi đâu?

Đá vọng phu Lượt xem: 32078
20/12/2014 16:37
Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748)

Mỗi chinh phụ, một câu thơ hóa đá
hồn vọng phu còn tỏa khói sương
trăm năm hào kiệt phi xương
lệ rơi thấm giấy dễ thường chưa khô!

Mảnh tình riêng ấy Lượt xem: 26366
20/12/2014 16:37
Bà Huyện Thanh Quan (1755-...)

Đi giữa nước nhà còn nhớ nước
phải đâu khắc khoải cuốc kêu trăng!
Thì ra chả cứ là xa khuất
khi mình lại nhớ chính mình chăng?

Mượn sóng Tiền Đường Lượt xem: 24040
20/12/2014 16:36
Nguyễn Du (1765 - 1810)

Quê nhà nào thiếu gì sông nước
chẳng thiếu dòng sâu máu cuộn ngầu
sao không là sông Lam, sông Hương
sông nước mắt phải mượn Tiền Đường gửi nỗi đau!

Hiển thị 411 - 420 tin trong 2245 kết quả