nguồn : http://vi.wikipedia.org
Lâm Thị Mỹ Dạ (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1949), là một nhà thơ nữ Việt nam, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Lâm Thị Mỹ Dạ sinh tại quê: huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà làm việc tại Ty văn hóa Quảng Bình, năm 1978 đến 1983 học Trường viết văn Nguyễn Du. Sau đó bà làm phóng viên, biên tập viên tạp chí Sông Hương (của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên - Huế). Lâm Thị Mỹ Dạ là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III, ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V. Hiện bà đang sống tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chồng bà, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một nhà văn, nhà thơ có tiếng ở Việt nam.
Một tập thơ gồm 56 bài do bà tự tuyển chọn trong những tập thơ đã xuất bản của mình được Nhà xuất bản Curbstone[1] dịch sang tiếng Anh và phát hành năm 2005.
Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Hồ Thế Hà đã viết: "Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu ý tứ. Tứ thơ bao giờ cũng là bất ngờ. Hình như không tạo được tứ lạ thì bài thơ vẫn còn trong dự tưởng.". Nhà thơ Ngô Văn Phú cũng nhận định: "Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hay ở những chỗ bất thần, ngơ ngác và những rung cảm đầy nữ tính." [2]. Những bài thơ Truyện cổ nước mình, Khoảng trời - hố bom của bà được giảng dạy trong chương trình tiếng Việt, văn học phổ thông của Việt nam.
Cha Lâm Thị Mỹ Dạ, ông Lâm Thanh đã từng tham gia Việt Minh và đến năm 1949 vào Sài Gòn sinh sống, năm 1954, ông định đưa cả gia đình vào đây nhưng vợ ông, bà Lý Thị Đấu không thể mang Lâm Thị Mỹ Dạ đi theo được vì phải chăm sóc mẹ già và em gái. Mặc dù sau khi đất nước thống nhất ông đã được nhận bằng khen của Thủ tướng chính phủ vì đã có công với cách mạng trong thời gian sinh sống ở Sài gòn nhưng trong suốt thời gian trước đó, ở quê ông bị cho là "theo địch vào Nam". Mẹ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng học tiểu học bằng tiếng Pháp, thời còn trẻ đã từng bán hàng cho các đồn lính Pháp nên khi cải cách ruộng đất bà bị quy là do "địch cài lại" và bị đấu tố. Cộng thêm với việc ông nội là đại địa chủ nên trong những năm tuổi thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ sống trong nghi kỵ, xa lánh của bạn bè, người quen. Mặc dù đã học xong cấp III nhưng bà không được học tiếp bậc cao hơn do vấn đề lý lịch [3]
76. Dòng sông lãng quên
Lượt xem: 21992
17/12/2014 16:48
Thân tặng Dương Quân (1)
Chân tay rồi cũng sẽ bỏ ta
Mắt môi tan biến với màu hoa
Trái tim khô héo thành dấu hỏi
Cơm áo lạnh lùng quên thịt da!
75. Cũng không
Lượt xem: 27215
17/12/2014 16:46
Hồn đau đốt cháy tình sầu
Nổi trôi vào tận tinh cầu vô danh
Ngập ngừng ánh mắt long lanh
Gặp nhau chưa dám... sao đành biệt ly?
72. Gượng gạo
Lượt xem: 34159
17/12/2014 16:45
Gió gọi trăng khuya núi nhớ rừng
Tro tàn bếp lạnh mấy chiều xuân
Cành mai rụng hết hoa ngày Tết
Còn chiếc lá non cũng héo dần!
71. Ngậm ngùi
Lượt xem: 21964
17/12/2014 16:44
Kính viếng Thầy Vương Hồng Sển (1)
Người đi: non nước mịt mờ
Bụi hồng giũ sạch, mộng mơ sá gì
Thánh nhân xưa cũng ra đi
Với lòng thanh thản tiếc gì thế gian
Trọn kiếp say
Lượt xem: 28601
17/12/2014 16:43
Rừng ngủ sao chim thao thức hoài
Hay là chim nhớ nắng ban mai
Hay là chim tủi thân phiêu bạc
Sợ gãy cánh rồi chim hết bay?
70. Nước
Lượt xem: 28104
17/12/2014 16:42
Nước ròng nước lớn sóng van xin
Ve vuốt đôi chân trắng như mình
Lục bình tím mãi lòng sông biển
Nước bỏ bùa yêu nắng tỏ tình!
69. Hồn cây cỏ
Lượt xem: 27222
17/12/2014 16:41
Người gần còn tưởng người xa
Người xa còn tưởng bên ta người gần
Tóc râu thực giả khó phân
Chân tay cũng đã bao lần thay xương!
68. Khói
Lượt xem: 25279
17/12/2014 16:40
Khói thuốc mưa buồn ôm áo tơi
Chiều tàn đất khách gió tàn môi
Hai tay không đủ che chân lạnh
Mưa chẳng dỗ dành giọt mồ côi!
67. Môi khô
Lượt xem: 22071
17/12/2014 16:39
Sao em nỡ vội đi xa
Không lời từ biệt quê nhà mù sương!
Lệ đâu còn nữa để buồn
Chiều mưa bọt nước còn vương gót giày
65. Tình thơ
Lượt xem: 26934
17/12/2014 16:38
Em đi mang hết hồn thơ
Văn chương chữ nghĩa hững hờ trống không
Vắt tim nặn óc đau lòng
So vần ghép chữ vẫn không bóng hình!
Hiển thị 1291 - 1300 tin trong 2178 kết quả