Thơ

I.
Quả đất nóng dần lên
tầng ôzôn có vấn đề gì đó

Sọ dừa gặp vấn đề trì trệ
tri thức nhồi vào tri thức cứ phòi ra

Mắt vấn đề toét tai vấn đề ù
bất an vấn đề giấc ngủ

Sâu rầy đang vấn đề cánh đồng
rừng cây vấn đề cháy và trụi

Nón hành khất ngã vấn đề xó chợ
trẻ lang thang vấn đề bụi đời

Lổn nhổn hành tinh vấn đề đẻ và đói
chiến trận tuôn vấn đề đỏ lòm.

*
Chó cứ sủa người cứ đi
những con đường đầy vấn đề ổ gà

Những nhịp cầu chông chênh quá tải
vấn đề nay mai sập bất cứ lúc nào

Những giống người tham gặm nhấm cả trời đất
vấn đề ngày kia thiên nhiên ăn thịt tuốt

Vấn đề nước cầm đầu lũ lụt
vấn đề lửa thủ phạm hỏa hoạn

Khủng hoảng thiếu thần linh
Khủng hoảng thừa yêu quái

Ðại loạn thay cái thiên hạ rắc rối
vấn đề tầng ôzôn cả thôi .

II.

Lục bục bụng dạ sôi
ruột gan vấn đề gì đó

Nghe chừng lục phủ ngũ tạng đều cọt kẹt
sida giác quan? ung thư toàn thân?

Không thể nói rằng ta bất cần
ta cần sống và cần đủ thứ

Cần dinh dưỡng cần khí thở
cần giấc mơ nõn ngọn rau xanh

Cần phút lặng thinh mặc niệm những mối tình quan họ
những người tình không giao phối bao giờ

*
Thất xà ngóc cổ trong hũ rượu
nọc rắn tuần hoàn bổ âm bổ dương

Ðộc trị độc nhộn nhạo huyết quản
lúc nhúc hổ mang khè hang hốc xương

Gần đây ta ngài ngại đi ra đường
dù chả để làm gì ta muốn ngồi một mình

Vu vơ một mình trống rỗng một mình
ta sờ sợ nơi nào nhiều khôn vặt ít thông minh

Ta nhờn nhợn cái há mồm vĩ nhân tôm cá
khạc đủ đồ nghề thằng nọ con kiạ

Ta mặc cảm cái bóng đèn điện không có điện
lủng lẳng trần nhà thường làm ta giật mình

Ta ngan ngán bóng quan hoạn gỉa thiến gỉa đạo
vừa ăn hoa hồng vừa xơi hoa đào

Những phường buôn cứt bán chó
nợ khó đòi thì làm gì nào

Những bất ổn đầy rẫy
thì đã sao ? thì làm sao ?

Có người thách ta đánh nhau
ta bảo ta yếu rồi ta lại không có võ

Có kẻ thách ta chửi nhau
ta bảo ta vừa bị mất trộm cả sọt từ ngữ

Có đứa thách ta nhổ vào mặt nó
ta bảo ta hết đờm rồi .

*
Ta chúi mữi hà hơi lên trang bản thảo
hô hấp nhân tạo những con chữ khó thở

Ta khao khát tiếng hát giun dế
không kiểm duyệt không biên tập

Ta ao ước cái bay chim chóc
không hộ chiếu không biên giới

Chó già giữ xương mèo già hoá cáo
ta già ta hóa trẻ con

Thiêng liêng thay khoảng lặng cô đơn
người hoá thánh chỉ khoảng khắc ấy

III.

Nóng quá trằn trọc quá
tầng ôzôn có vấn đề gì đó

Quạ cũ kêu sương ươn ướt dĩ vãng
tiếng cú rạch trời rơi từng giọt bầm đêm

Giấc mê mệt thiêm thiếp chiêm bao trắng
loạng quạng ma nhảy nhót trước thềm

Thử nhập đồng khúc tăng gô quỉ
chợt thấy mình thối rữa từ từ

Kèn trống rỗng mọc móng mọc vuốt
gầm gừ đèn lân tinh nhờ nhợt

Ú ớ mồ hôi
chân lỡ nhảy -- phải nhảy -- cứ nhảy ...

*
Bước nhảy nảy tư duy thị trường
kinh doanh xác mình dù giá thậm rẻ mạt

Quạ có mua ta bán trọn gói
hoặc bán từng phần trước khi thối rữa hết

Cú có mua ta chấp nhận hạ giá
chấp nhận cho trả góp từng phần

Như kiểu bán từng phần rừng-bể-núi-sông
từng khúc ruột đất từng mẩu mặt
bằng từng miếng địa ốc

Thời buổi thị trường mọi việc đều có thể
có thể nước này mua trọn nước kia

Có thể lập những tập đoàn siêu quốc
những quốc gia mất nước từng phần

Cái xác ta thì có nghĩa lý gì
ta tự tháo khớp và tự bán

*
Chuyện xưa ông lão kiết dạy con:
"Khi cha chết xả xác cha mà bán ..."

Ta thì phải tự tay làm lấy
sợ các con chia chác không đều

Tự đọc điếu văn soạn sẵn vĩnh biệt mình
tự giải thoát một thời mộng mị

Cuốn gói hồn đi kinh tế mới vầng trăng
cấy lúa trồng khoai Kim Mộc Thủy Hoả Thổ

Ta đi đây ... kinh tế mới vũ trụ
vượt tầng ôzôn đang có vấn đề

IV.

Ngôi sao xa xôi bất ngờ đổi ngôi
ánh sao băng chợt đọng đẫm hố mắt

Ngọn gío thông thường lay ta tỉnh giấc
khí thở thông thường thoi thóp lại ta rồi

Ta bịch về mặt đất bất ổn
nhố nhăng đến chết nết không chừa

Lại lục bục bụng sôi
lại ruột gan vấn đề gì đó

Lại thừ nhớ những mối tình quan họ
những người tình không giao phối bao giờ

Lại đi đưa những đám ma từ ngữ
xác chữ chôn đầy nghĩa địa giấy vô hình

Lại khốn khổ với sọ dừa trì trệ
nhồi tri thức vào tri thức cứ phòi ra

Lại càu nhàu quả đất nóng dần lên
nghi tầng ôzôn có vấn đề gì đọ

V.

Ta lững thững xách sọ dừa đi chợ
tìm chú vịt tàu lai thím vịt xiêm

Ẩn sĩ Lêguym toạ thiền giữa chợ
gia vị ê hề những chua chát đắng cay

Những quàng quạc đành đạch âm nhạc
những cua ốc nghêu sò nguồn thi hứng tràn đầy

Những cuốn muống non ròng ròng ứa nhựa
oái oái khoái cái roi rói chợ

Cứ thế bình tâm cân bằng dần các thứ
ngà ngà say men chợ thường ngày

Cứ phảng phất thơm chùa những hồng hào má
những thắm cười tươi như hoa nhà ai

cứ ấn tượng bàn tay bậc thầy mổ cá
bái phục giáo sư vặt lông vịt thiên tài

Tiết vịt sống hài hoà lòng vịt chín
món tiết canh thần tiên lấp lỗ hổng sọ dừa

*
Vào cuộc nhậu có kẻ rất sợ tiết
dù ở đời họ máu tiết canh nhau

Thì làm sao
thì làm gì nào

Thì ta thi tài với con nít lối xóm
cờ tướng cờ vua cờ ngựa cờ ô ...

Và chơi lại trò xưa đơn giản như là không có gì
ván âm dương Kim Mộc Thủy Hoả Thổ

Năm ô cờ sắp xếp cả thiên hạ
ngồi xổm chơi hay bệt đất thì tuỳ

Và nghêu ngao lõng thõng hò vè
Và chơi lại trò xưa đơn giản như là không có gì
ván âm dương Kim Mộc Thủy Hoả Thổ

Năm ô cờ sắp xếp cả thiên hạ
ngồi xổm chơi hay bệt đất thì tuỳ

Và nghêu ngao lõng thõng hò vè
giun dế du dương ễnh ương đắm đuối

Và ngạo nghễ khúc đồng dao nhăng cuội
lời trẽ con phấp phới ngũ hành kỵ

Cuối năm con dê (1991)
Ðầu năm con khỉ (1992)

Các tác phẩm khác

Nguyễn Công Hoan (1903-1977) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 22449
22/12/2014 10:43
Nguyễn Công Hoan (6 tháng 3 năm 1903 tại Hưng Yên - 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này.

Thế Lữ (1907-1989) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 21649
22/12/2014 10:43
Thế Lữ (6 tháng 10 năm 1907 – 3 tháng 6 năm 1989) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu (1934). Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày nay.

Hoài Thanh (1909-1982) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 18883
22/12/2014 10:43
Hoài Thanh (1909 - 1982) có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên (ngoài ra ông còn sử dụng các bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê), là một nhà phê bình văn học uyên bác và tinh tế, đã đóng góp công lớn về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ 20. Tác phẩm bất hủ Thi nhân Việt Nam do ông và em trai (Nguyễn Đức Phiên - bút danh Hoài Chân) viết đã đưa tác giả lên vị trí cao, xứng tầm một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Nguyễn Tuân (1910-1987) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 29560
22/12/2014 10:42
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Hà Nội có một con đường mang tên ông.
Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.[1][2] Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và tài hoa

Tú Mỡ (1900-1976) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 23111
22/12/2014 10:42
Tú Mỡ[1], tên thật: Hồ Trọng Hiếu (1900-1976), là một nhà thơ trào phúng Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu văn học, thì với gần nửa thế kỷ cầm bút bền bỉ, ông đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của thơ ca[2], đặc biệt về mặt thơ trào phúng, thời nào ông cũng là bậc thầy.[3]

Thanh Tịnh (1911-1988) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 37068
22/12/2014 10:42
Thanh Tịnh (1911-1988), tên thật là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh), là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút danh khác của ông là: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945).
Ông sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911[1] tại xóm Gia Lạc,ven sông Hương, ngoại ô Huế.
Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế.

Vũ Trọng Phụng (1912-1939) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 18914
22/12/2014 10:42
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo (nay là thị trấn Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông lớn lên và mất tại Hà Nội.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng[13].

Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 21340
22/12/2014 10:41
Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của những tiểu thuyết lịch sử, vở kịch lớn như: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Bắc Sơn, Sống mãi với thủ đô.
Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 6 tháng 5 năm 1912 trong một gia đình nho giáo ở làng Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội.
Nguyễn Huy Tưởng mất ngày 25 tháng 7 năm 1960 tại Hà Nội.

Hàn Mạc Tử (1912-1940) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 26140
22/12/2014 10:41
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11 tháng 11, 1940) là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn.[1]
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo, ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Tòa với tên thánh là Phanxicô.
Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ,[4] khi mới bước sang tuổi 28.[5].

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) - Tiểu sử và Sự nghiệp Lượt xem: 19367
22/12/2014 10:41
Nguyễn Nhược Pháp, (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1914, mất ngày 19 tháng 11 năm 1938), là một nhà thơ Việt Nam.
Nguyễn Nhược Pháp sinh tại Hà Nội[1}. Ông mất năm 24 tuổi tại Hà nội do bệnh thương hàn.

Hiển thị 231 - 240 tin trong 2384 kết quả