nguồn : http://vi.wikipedia.org
Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn.
Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư.
Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Thân phụ ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu.
Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh.
Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo.
Cùng thời gian đó, Tự Lực Văn Đoàn ra tờ báo Phong Hóa. Về sau khi Phong Hóa bị đóng cửa thì tờ Ngày Nay thay thế. Cùng với báo, Tự Lực Văn Đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay. Toàn bộ tác phẩm của Khái Hưng đều do Ngày Nay và Đời Nay công bố.
Là một trong những cây bút chính của nhóm, tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng Hồn bướm mơ tiên (1933) là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức (1943) và cũng là tiểu thuyết cuối cùng của nhóm. Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai tiểu thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra đời chung tập truyện ngắn Anh phải sống cùng năm 1934.
Giống như các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch, thường chỉ một hồi, nhưng ít được công diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cùng là một dịch giả. Bài Tình tuyệt vọng ông dịch từ thơ của Félix Arvers rất nổi tiếng.
Trong thời gian Đệ nhị thế chiến, giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị. Do tham gia Đại Việt dân chính Đảng thân Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945, Khái Hưng được trả tự do. Ông cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho ra tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới.
Sau Cách mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Khái Hưng mất năm 1947. Một số tài liệu cho rằng Khái Hưng bị Việt Minh bắt giam tại Liên Khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh) rồi đem xử tử hình ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.[2] Theo ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi Khái Hưng, tiết lộ Khái Hưng mất tích sau Tết Ðinh Hợi (22/1/1947).[2]
|
|
Cuốn tiểu thuyết quen thuộc nhất của Khái Hưng là cuốn Nửa chừng xuân. Theo quan điểm mácxít trên Từ điển văn học:
Là một tiểu thuyết luận đề tuyên truyền với lễ giáo phong kiến đòi quyền tự do yêu đương và hạnh phúc cá nhân, Nửa chừng xuân có ý nghĩa tiến bộ nhất định...Mặc dù vậy, đặt trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam hết sức đen tối đương thời, Nửa chừng xuân cũng như tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung có ảnh hưởng tiêu cực nặng nề: đưa ra con đường đấu tranh cho tình yêu hạnh phúc cá nhân, chống lễ giáo phong kiến, song lẩn tránh nhiệm vụ đấu tranh chống thực dân thống trị giải phóng dân tộc. Do đó, muốn hay không Khái Hưng và nhóm Tự lực văn đoàn đã làm lạc hướng đấu tranh của thanh niên. Dường như cũng cảm thấy điều đó, Khái Hưng đã thêm chương cuối cùng khi in thành sách, để cho nhân vật Lộc nói đến "xã hội, nhân loại" và tuyên bố "dấn thân vào cuộc đời gió bụi". Những lời lẽ trống rỗng đó không chút phù hợp với bản chất tính cách nhân vật tầm thường này, có chẳng chỉ để xoa dịu lương tâm chàng thanh niên tiểu tư sản mà thôi. Cái "tôi" cá nhân chủ nghĩa tư sản lúc này chưa dám buông tuồng trắng trợn, cũng như cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến của nó tuy gay gắt song chưa dám đi tới cùng...[3]
Thu rơi từng cánh
Lượt xem: 16445
18/12/2014 15:45
Mùa thu hoa cúc lại tàn,
Thuyền ai buộc mãi bên làn cây cong.
Người về để lạnh phòng không,
Thu rơi từng cánh cho lòng nhớ thương.
Trối trăng
Lượt xem: 16934
18/12/2014 15:44
-Sum họp đôi ta chốc bấy lâu,
Tính tôi với mợ tưởng cùng nhau
Trăm năm đầu bạc duyên còn thắm,
Tôi có ngờ đâu thế này đâu !
Vì ai
Lượt xem: 27913
18/12/2014 15:42
Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh?
áo em ai nhuộm mà anh thấy?
Da trời ai nhuộm mà lam?
Tình ta ai nhuộm, ai làm cho phai ?
Giữa đường
Lượt xem: 18354
18/12/2014 15:42
Đường rừng sỏi đỏ như son,
Xa hàng một cổ theo con ngựa gầy.
Lối mòn leo đá, luồn cây,
Nhá nhem dừng lại quán nầy, mai xuôi
Nhà em
Lượt xem: 25549
18/12/2014 15:41
Nhà em cách bốn quả đồi,
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng.
Nhà em xa cách quá chừng,
Em van anh đấy, anh đừng yêu em.
Vài nét Huế
Lượt xem: 25018
18/12/2014 15:40
Cầu cong như chiếc lược ngà,
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ.
đôi bờ đôi cánh tay vua,
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình.
Lửa đò
Lượt xem: 31523
18/12/2014 15:39
Suốt trời không một điểm sao,
Suốt trời mực ở nơi nào loang ra.
Lửa đò chong cái trăng hoa,
Mõ sông lục đục canh gà te te.
Sao chẳng về đây
Lượt xem: 14920
18/12/2014 15:39
Lối đỏ như son tới xóm Dừa,
Ngang cầu đã điểm hạt lưa thưa,
(Xuân sang xao xuyến lòng tôi quá)
Tôi đã xây tròn sự nghiệp chưa ?
Xanh
Lượt xem: 36090
18/12/2014 15:37
Xanh cây, xanh cỏ, xanh đồi,
Xanh rừng, xanh núi, da trời cũng xanh
Áo chàm cô mán thanh thanh,
Mắt xanh biêng biếc một mình tương tư.
Làm dâu
Lượt xem: 21518
18/12/2014 15:37
Ngày xưa dệt cửi chăn tằm,
Em còn bé lắm, mười lăm tuổi đầu.
Bây giờ cắt cỏ chăn trâu,
Bây giờ em đã làm dâu nhà người.
Hiển thị 921 - 930 tin trong 2156 kết quả