Thơ

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Hoài Thanh (1909 - 1982) có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên (ngoài ra ông còn sử dụng các bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê), là một nhà phê bình văn học uyên bác và tinh tế, đã đóng góp công lớn về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ 20. Tác phẩm bất hủ Thi nhân Việt Nam do ông và em trai (Nguyễn Đức Phiên - bút danh Hoài Chân) viết đã đưa tác giả lên vị trí cao, xứng tầm một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Sinh ngày 15 tháng 7 năm 1909 [1] trong một gia đình nhà nho nghèo có tham gia phong trào Đông Du chống Pháp của Phan Bội Châu. Quê ông ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bắt đầu học chữ Hán, chữ Quốc ngữ, hồi nhỏ ông là học sinh của trường Quốc học Vinh; rồi theo học trường Pháp Việt đến bậc trung học; tham gia phong trào yêu nước của học sinh của Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Trước 1945, ông tham gia viết văn, làm báo, dạy học và được coi là người đứng đầu trường phái phê bình văn học Nghệ thuật vị nghệ thuật. Năm 1927, Ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1930 đang học ở trường Bưởi (Hà Nội) thì bị bắt, bị kết án treo, bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ và giải về quê. Năm 1931 vào Huế, làm công cho một nhà in, đi dạy học, đồng thời viết văn, viết báo.

Tham gia Tổng khởi nghĩa của Việt Minh cướp chính quyền ở Huế tháng 8 năm 1945. Sau 1945 ông lần lượt giữ những chức vụ: Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc, Huế (tháng 9 năm 1945); cán bộ giảng dạy tại Đại học Hà Nội (từ 1945 đến 1946); công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam (từ 1947 đến 1948); ủy viên Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam(1950); Trưởng tiểu ban Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương (1950-1956); Vụ trưởng Vụ nghệ thuật và giảng dạy tại Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (1958). Trong khoảng 10 năm 1958-1968 ông trở thành đại biểu Quốc hội khóa 2, làm Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1 và 2. Từ 1959-1969 ông giữ chức Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam kiêm Thư ký tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện [2]. Từ 1969 đến 1975 ông giữ chức Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hoài Thanh mất ngày 14 tháng 3 năm 1982 tại Hà Nội.

Hoài Thanh (1909 - 1982) có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên (ngoài ra ông còn sử dụng các bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê), là một nhà phê bình văn học uyên bác và tinh tế, đã đóng góp công lớn về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ 20. Tác phẩm bất hủ Thi nhân Việt Nam do ông và em trai (Nguyễn Đức Phiên - bút danh Hoài Chân) viết đã đưa tác giả lên vị trí cao, xứng tầm một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Đánh giá về tác giả

  • Một nửa đời vị nghệ thuật:

Vị nghệ thuật một nửa đời
Nửa đời còn lại vị người cấp trên
"Thi nhân" còn một chút duyên
Chẳng cầm cho vững lại lèn cho đau...X.S - Thơ chân dung[1][3]

  • Phản ứng của tác giả :

Tay này nó biết mình mê Kiều nên nó dùng lối lẩy Kiều để vẽ chân dung thì khéo thật. Tuy vậy câu thứ hai nói oan và nói ác quá. Có không ít người nghĩ như thế về tôi.

Đánh giá của tác giả

" Một đời làm văn tôi chỉ tìm cái hay cái đẹp để bình. Đó là điều ham muốn của tôi. Vậy mà tôi đã vấp phải khối chuyện phiền: kẻ yêu, người ghét. Thậm chí tôi còn bị vu cáo, bị nói oan. Tôi biết vậy nhưng không thể sống khác, viết khác cái tạng của mình. Điều mà tôi có thể hoàn toàn yên tâm và tự hào trước lúc đi xa là tôi đã sống và viết hoàn toàn trung thực.

chú thích

Các tác phẩm khác

Tặng em Lượt xem: 22688
19/12/2014 18:58
Anh tặng em một áng mây viễn xứ
Của đời anh phiêu bạt chẳng hề nguôi
Nếu em hỏi mây bay về đâu chứ?
Hãy nhìn sông nước vẫn chảy về xuôi

Thắp sáng hồn em Lượt xem: 18126
19/12/2014 18:57
Hãy thắp sáng hồn em
Khi đêm nay ngọn gió mới giao mùa
Như một lần ta thắp môi em cháy đỏ
Bằng nụ hôn cay đắng tuyệt vời

Thiếu phụ Lượt xem: 17884
19/12/2014 18:56
Thiếu phụ ấy đi vào đời ta như một bài thơ không dấu chấm
Có hạnh phúc có khổ đau có bình yên ở trong lòng bão táp
Có mơ ước treo trên đầu sợi tóc
Nên chẳng bao giờ dám tính chuyện trăm năm

Thơ cho em Lượt xem: 20062
19/12/2014 18:54
Anh vẫn biết quê nhà em côi cút
Những sớm khuya vất vả nuôi con
Vì tuổi xuân ngày tháng hao mòn
Bao thương nhớ giận hờn nuối tiếc

Thương mình Lượt xem: 30309
19/12/2014 18:49
Về quê đã được sáu năm
Hai năm tù ngục bốn năm sống mòn
Bao nhiêu mộng ước hoài công
Dấu xưa hồ hải tang bồng còn đây

Tiễn vợ vào Nam Lượt xem: 23659
19/12/2014 18:47
Cũng vì cơm áo vì cuộc sống
Đầu năm chồng vợ phải chia tay
Én Bắc nhạn Nam trời sấm động
Nghĩ lại phận mình thẹn lắm thay

Trăn trở Lượt xem: 14697
19/12/2014 18:45
Dòng sông nào khi tìm về với biển
Cũng phải qua những khúc khuỷu nông sâu
Phải vặn mình chịu đựng những cơn đau
Chứa con nước lớn ròng trăn trở

Trường ca 10 năm Lượt xem: 20656
19/12/2014 18:44
10 năm qua đi
10 năm còn đó
Vũng thời gian thành lịch sử rồi em
Anh trở về với số phận gian nan

Từ đó Lượt xem: 30518
19/12/2014 18:43
Ta từ đó như loài còng khốn khó
Cũng hoài công xe mãi cát bên bờ
Em từ đó như nghìn cơn sóng vỗ
Cũng vô tình như nhát chém hư vô

Về lại nhà bạn Lượt xem: 21430
19/12/2014 18:41
Ta từ cái cõi xa xôi
Về đây ngồi lại chỗ ngồi năm xưa
Ngồi mà nhớ những đêm mưa
Ngồi mà nhớ những sớm trưa đi về

Hiển thị 641 - 650 tin trong 2151 kết quả