nguồn : http://vi.wikipedia.org
Hồ Dzếnh (sinh năm 1916- mất ngày 13 tháng 8 năm 1991), tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông được biết nhiều nhất qua tập thơ Quê ngoại (thơ) với một giọng thơ nhẹ nhàng, siêu thoát phảng phất hương vị thơ cổ Trung Hoa. Ngoài ra Hồ Dzếnh còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm, tiêu biểu là tập truyện ngắn Chân trời cũ (1942), Thạch Lam đề tựa.
Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt, quê ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. Năm 1953 ông vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội tiếp tục viết báo, làm thơ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ngay từ buổi đầu thành lập (1957). Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội do xuất huyết dạ dày và viêm thận[1].
Hồ Dzếnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
Nhà thơ Bùi Giáng trong nhiều tập thi thoại đã cho rằng Hồ Dzếnh là người làm thơ lục bát cực hay, nhưng bù lại thơ thất ngôn chỉ ở mức bình thường. Bài "Rằm tháng giêng", theo Bùi Giáng trong cuốn Thi ca tư tưởng thì: "Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh".
Nhà văn Kiều Thanh Quế viết: "Ngòi bút Hồ Dzếnh đã có được lắm đặc tánh khả quan trong khi phô diễn. Nó nên tỏ ra có sức mạnh trong những tiểu thuyết dày dặn, thì tên tuổi của người Minh Hương ấy – Hồ Dzếnh là người Minh Hương, văn học quốc ngữ không nề hà chẳng đón tiếp như đã đón tiếp bao nhiêu nhà văn Việt Nam hữu tài." (Tạp chí Tri Tân số 67, 13/6/1942)
"Lời giới thiệu" Tuyển tập Hồ Dzếnh – Tác phẩm chọn lọc, NXB Văn Học 1988, nhận định: "Tác phẩm của Hồ Dzếnh không nhiều, lại không tập trung ở một tờ báo hay đặc san nào. Với bản chất trầm lắng, ông luôn luôn khiêm tốn tự cho mình là người mới bắt đầu bước vào nghề viết. Tuy nhiên, với hai tập văn thơ Chân trời cũ và Quê ngoại, Hồ Dzếnh được biết đến như một nhà thơ có chân tài. "
Nhà thơ Hoài Anh viết về Hồ Dzếnh: "Phần đóng góp quan trọng nhất cho văn học Việt Nam của anh lại là tập Chân trời cũ, thể hiện nếp sinh hoạt, tính cách, tình cảm, tâm lý của bà con gốc Hoa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hồ Dzếnh chỉ kể chuyện về người cha mình, các anh, chị, em mình, con ngựa của cha mình... mà làm cho người đọc Việt Nam rung động tận đáy lòng." (Chân dung văn học, NXB Hội Nhà văn 2001)
Nhà văn, giáo sư Đặng Thai Mai đánh giá tập truyện Cô gái Bình Xuyên (NXB Tiếng Phương Đông, 1946) viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của người dân Nam bộ thời 1945-1946 như là một trong những tín hiệu đầu tiên của văn học kháng chiến.
Theo Từ điển văn học (bộ mới, NXB Thế giới, 2004) và Tuyển tập văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 -1945 (NXB KHXH, 1990), các tác phẩm của ông gồm có:
Ngoài ra, ông còn cho đăng nhiều thơ, truyện ngắn trên các báo và còn mấy vở kịch đã công diễn, nhưng chưa xuất bản.
Đặc biệt, bài thơ Chiều của ông đã được nhạc sỹ Dương Thiệu Tước phổ nhạc và cũng khá nổi tiếng. Bài thơ Ngập ngừng cũng được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như Anh Bằng (Anh cứ hẹn), Hoàng Thanh Tâm (Em cứ hẹn), Minh Duy (Ngập ngừng)...
Tên của Hồ Dzếnh nếu phát âm theo giọng Quảng Đông là Hồi-Tsìu-Díng, thu gọn lại là Hồi-Díng, chắc vì khi phiên âm sang tiếng Việt hai tiếng Hồi-Díng nghe không được hay lắm nên ông đã ghi là Hồ Dzếnh. Tuy vậy những người trong làng văn nghệ vẫn cứ trêu đùa gọi ông là Hồ Dính, có người còn đặt một vế đối: "Hồ Dính dính hồ hồ chẳng dính" để thách đối. Lúc có người đối lại là: "Ngọc Giao giao ngọc ngọc không giao" (mượn tên nhà văn Ngọc Giao). Cũng có người đối lại: "Vũ Bằng bằng vũ vũ chưa bằng", (mượn tên nhà văn Vũ Bằng), nhưng đều chưa chỉnh.
Năm 1947, Hồ Dzếnh kết hôn với bà Nguyễn Thị Huyền Nhân. Bà Huyền Nhân mất vào ngày Tết Đoan Ngọ năm 1950 vì bệnh tả, hưởng dương 20 tuổi. Năm 1954, ông tái hôn với bà Nguyễn Thị Hồng Nhật.[1]
Người con duy nhất của Hồ Dzếnh là Hà Chính, sinh vào đầu năm 1950. Ông Hà Chính cũng chỉ có một con duy nhất Hà Quang, sinh năm 1984, đang định cư tại Hanover, Đức.[1]
Ta ngồi lại I
Lượt xem: 22632
19/12/2014 19:04
Ta ngồi lại vun sầu cao như núi
Câu chuyện trăm năm, chén rượu giang hồ
Cuộc đời buồn, buồn như những dòng thơ
Mưa gõ nhịp phách sênh mờ ngọn bấc.
Ta ngồi lại Ii
Lượt xem: 15940
19/12/2014 19:03
Cả nhà ta đang chịu một cơn đau lớn
Vì đứa con trai thân yêu vừa mới ra đi
Ra đi không bao giờ trở lại
Nổi đau không gì bù đắp nỗi
Tặng bằng hữu
Lượt xem: 22973
19/12/2014 18:59
Đâu biết ngày xanh tóc bạc đầu
Bao năm cười khóc chuyện bể dâu
Đêm trường vẫn chiếc thân cô độc
Góc bể mù tăm cánh hải âu
Tặng em
Lượt xem: 22711
19/12/2014 18:58
Anh tặng em một áng mây viễn xứ
Của đời anh phiêu bạt chẳng hề nguôi
Nếu em hỏi mây bay về đâu chứ?
Hãy nhìn sông nước vẫn chảy về xuôi
Thắp sáng hồn em
Lượt xem: 18134
19/12/2014 18:57
Hãy thắp sáng hồn em
Khi đêm nay ngọn gió mới giao mùa
Như một lần ta thắp môi em cháy đỏ
Bằng nụ hôn cay đắng tuyệt vời
Thiếu phụ
Lượt xem: 17899
19/12/2014 18:56
Thiếu phụ ấy đi vào đời ta như một bài thơ không dấu chấm
Có hạnh phúc có khổ đau có bình yên ở trong lòng bão táp
Có mơ ước treo trên đầu sợi tóc
Nên chẳng bao giờ dám tính chuyện trăm năm
Thơ cho em
Lượt xem: 20074
19/12/2014 18:54
Anh vẫn biết quê nhà em côi cút
Những sớm khuya vất vả nuôi con
Vì tuổi xuân ngày tháng hao mòn
Bao thương nhớ giận hờn nuối tiếc
Thương mình
Lượt xem: 30317
19/12/2014 18:49
Về quê đã được sáu năm
Hai năm tù ngục bốn năm sống mòn
Bao nhiêu mộng ước hoài công
Dấu xưa hồ hải tang bồng còn đây
Tiễn vợ vào Nam
Lượt xem: 23684
19/12/2014 18:47
Cũng vì cơm áo vì cuộc sống
Đầu năm chồng vợ phải chia tay
Én Bắc nhạn Nam trời sấm động
Nghĩ lại phận mình thẹn lắm thay
Trăn trở
Lượt xem: 14720
19/12/2014 18:45
Dòng sông nào khi tìm về với biển
Cũng phải qua những khúc khuỷu nông sâu
Phải vặn mình chịu đựng những cơn đau
Chứa con nước lớn ròng trăn trở
Hiển thị 621 - 630 tin trong 2134 kết quả