nguồn : http://vi.wikipedia.org
xem thêm : tác phẩm
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11 tháng 11, 1940) là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn.[1]
Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.[2]
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo, ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Tòa với tên thánh là Phanxicô. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con: 1-Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. 2- Nguyễn Thị Như Lễ. 3- Nguyễn Thị Như Nghĩa. 4- Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử). 5- Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-02-1959). 6- Nguyễn Bá Hiếu; 2 người em út: Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Thảo.
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926).
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền.
Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người[3].
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.
Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên.
Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.
Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ,[4] khi mới bước sang tuổi 28.[5].
Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm mười sáu tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".
Các sáng tác của Hàn Mặc Tử, gồm có:
Ngoài ra còn có một số bài phóng sự, tạp văn, văn tế...[6] Xem thêm chi tiết ở bên dưới.
Đánh giá và bình luận về tài thơ của Hàn Mặc Tử có rất nhiều, sau đây là một số đánh giá của các nhà thơ văn nổi tiếng:
Một người đau khổ đến nhường ấy, lúc sống ta hờ hững bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn. - Mai 1941
Cảnh nhàn
Lượt xem: 16289
21/08/2013 19:44
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao
Lòng vô sự
Lượt xem: 19017
21/08/2013 19:43
Trải nguy nan đã mấy phen
Thân nhàn phúc lại được về nhàn
Niềm xưa trung ái thề chẳng phụ
Cảnh cũ điền viên thú đã quen
Mùa thu đi chơi thuyền
Lượt xem: 10886
21/08/2013 19:43
Nước xuôi nước ngược, sóng dâng triều
Thuyền khách chơi thu, nọ phải dìu
Chèo vượt bóng trăng, nhân lúc hứng
Buồm giong ngọn gió mặc cơn siêu
Mặc chê khen
Lượt xem: 21994
21/08/2013 19:42
Thị phi chẳng quản, mặc chê khen
Ngu dại chan chan, tính đã quen
Cảnh cũ điền viên, tìm chốn cũ
Khách nhàn sơn dã, dưỡng thân quèn
Tự thán
Lượt xem: 8877
21/08/2013 19:41
Gần son thì đỏ, mực thì đen
Sáng biết nhờ ơn thửa bóng đèn
Ăn uống miễn theo nơi phép tắc
Tới lui cho biết lẽ kinh quyền
Thói đời
Lượt xem: 82188
21/08/2013 19:39
Thế gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi
Nhân tình thế thái
Lượt xem: 16654
21/08/2013 19:38
Thấy dặm thanh vân bước ngại chen
Được nhàn ta sá dưỡng thân nhàn
Ba gian am quán lòng hằng mến
Đôi chốn sơn hà mặt đã quen
Danh sách Nhà thơ : Tiểu sử và Sự nghiệp
Lượt xem: 27694
20/08/2013 10:02
Bà Huyện Thanh Quan - Bằng Việt - Bích Khê - Bùi Giáng - Bùi Minh Quốc - Cao Bá Quát - Cao Thoại Châu - Chế Lan Viên - Đặng Quang Chính - Đặng Thai Mai - Đặng Trần Côn - Đỗ Phồn - Đỗ Phủ - Đỗ Trung Quân - Đồng Đức Bốn - Đông Hải - Dương Khuê - Duong Lam - Giang Nam - goldonline.vn - Hàn Mặc Tử - Hồ Dzếnh - Hồ Xuân Hương - Hoài Thanh - Hoàng Cầm - Hoàng Hà - Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hồng Nguyên - Hữu Loan - Hữu Thỉnh - Huy Cận - Huyền Minh - Khái Hưng - Kim Giang - Lâm Thị Mỹ Dạ - Lê Anh Xuân - Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái - Lê Ngọc Hân - Luân Tâm - Lưu Quang Vũ - Lưu Trọng Lư - Lưu Vĩnh Hạ - Lý Bạch - Lý Thường Kiệt - Lý Tử Tấn (Nguyễn Gia Linh) - Mai Đình - Mộng Tuyết - Nam Cao - Nắng Xuân - Ngô Tất Tố - Nguyễn Bính - Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nguyễn Công Trứ - Nguyễn Đình Chiểu - Nguyên Đỗ - Nguyễn Du - Nguyễn Duy - Nguyên Hông - Nguyễn Huy Tưởng - Nguyễn Khoa Điềm - Nguyễn Khuyến - Nguyễn Lê Huy - Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Mỹ - Nguyễn Nhật Ánh - Nguyễn Nhược Pháp - Nguyên Thạch - Nguyên Thanh Hòa - Nguyễn Thành Long - Nguyễn Thi - Nguyễn Trãi - Nguyễn Trung Kiên - Nguyễn Tuân - Nguyễn Vũ Tiềm - Nguyễn Vỹ - Nhóm Văn Thơ Lạc Việt - Phạm Huy Thông - Phạm Ngọc Thái - Phạm Thiên Thư - Phan Bội Châu - Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh)- Phan Khôi - Phùng Khắc Khoan - Phương Triều - Phuongtim - Puskin - Quách Tấn - Quang Dũng - Tạ Ty - Tản Đà - Tăng Minh Luân - Tế Hanh - Thâm Tâm - Thăng Trầm - Thanh Hòa - Thanh Tùng - Thế Lữ - Thơ vui - Thuận Hữu - Tô Đông Pha - Tố Hữu - Trầm Vân - Trần Đăng Khoa - Trần Hậu - Trần Hữu Nghiễm - Trần Huyền Trân - Trần Mạnh Hùng - Trần Tuấn Khải (Á Nam) - Trịnh Công Sơn - Tú Mỡ - Tú Xương(Trần Tế Xương - Trần Cao Xương) - Vũ Cự - Vũ Hoàng Chương - Vũ Ngọc Phan - Vũ Trọng Phụng - Vương Đức Lệ - Xuân Diệu - Xuân Quỳnh - Xương Rồng
Cây mận của em
Lượt xem: 21460
19/08/2013 17:03
Cô ấy là cây mận của anh
Cắm rễ vào đất đai của anh
Tỏa bóng vào trời xanh của anh
Anh có tốt không
Lượt xem: 43060
19/08/2013 17:02
Như lúa hỏi đất
Anh có tốt không?
Như cây hỏi gió
Anh có tốt không?
Hiển thị 1731 - 1740 tin trong 2145 kết quả