Thơ

nguồn : http://vi.wikipedia.org

Bùi Huy Phồn (16 tháng 12 năm 1911 - 31 tháng 10 năm 1990) là nhà thơ, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Ông có các bút danh: Đồ Phồn, Bùi Như Lạc, Cười Suông, Việt Lệ, Ấm Hai, Lý Ba Lẽ, BHP.

Tiểu sử

Bùi Huy Phồn sinh ngày 16 tháng 12 năm 1911 tại Phố Đầm, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc của ông ở làng Liên Bạt, xã Mai Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Cha của Bùi Huy Phồn là một nhà nho, chi trưởng họ "Đại Bùi". Ông thi cử không đỗ, bỏ làng phiêu bạt lên Bắc Giang làm thầy giáo. Trước năm 1940, gia đình Bùi Huy Phồn thuộc vào loại giàu có. Nhưng trong giai đoạn 1940-1945, gia đình ông bị phá sản và phải bán hết ruộng đất ở Phố Đầm để trở về quê gốc Ứng Hòa. Bùi Huy Phồn học chữ Hán hết chương trình tú tài và cũng thạo tiếng Pháp.

Trước Cách mạng tháng Tám, ông dạy học, viết văn, làm thơ, cộng tác với các báo Hà Nội báo, Phong hóa, Tiểu thuyết thứ năm, Văn mới... Ông gia nhập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Bùi Huy Phồn từng là ủy viên Ban vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ ở Hà Nội, ủy viên chấp hành đoàn Văn hóa kháng chiến Bắc Bộ, chủ bút tuần báo Đây Việt Bắc (khu X), biên tập viên báo Cứu quốc khu X, Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1958-1962), ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khóa hai (1962-1972), đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội các khóa bốn, năm và sáu, ủy viên thường trực Hội văn học nghệ thuật Hà Nội. Sau đó, ông nghỉ hưu, mất ngày 31 tháng 10 năm 1990 tại Hà Nội.

Tác phẩm đã xuất bản

  • Lá huyết thư (tiểu thuyết dã sử, 1932)
  • Một chuỗi cười (tiểu thuyết trào phúng, 1941)
  • Sự tích Trần Hưng Đạo diễn ca (truyện thơ, 1941)
  • Gan dạ đàn bà (tiểu thuyết trinh thám, 1942)
  • Mối thù truyền kiếp (tiểu thuyết trinh thám, 1942)
  • Tờ di chúc (tiểu thuyết trinh thám, 1943)
  • Thôn nữ ca (tập ca dao mới, 1944)
  • Khao (tiểu thuyết trào phúng, 1946)
  • Người chiến sĩ chồng tôi (tiểu thuyết, 1949)
  • Tình quân ngũ (truyện vừa, 1949)
  • Tay người đàn bà (kịch hai hồi, 1950)
  • Bia miệng, Mưu sâu Mỹ Diệm, Thơ ngang, Tàn xuân đế quốc (tập thơ trào phúng 1952, 1957, 1959)
  • Vô lý không có lẽ (kịch ngắn, 1960)
  • Phất (tiểu thuyết, 1961)
  • Trái cam (truyện ngắn và ký, 1972)
  • Bình minh hôm nay (tiểu thuyết, 1990)

chú thích

Các tác phẩm khác

Tặng em Lượt xem: 22690
19/12/2014 18:58
Anh tặng em một áng mây viễn xứ
Của đời anh phiêu bạt chẳng hề nguôi
Nếu em hỏi mây bay về đâu chứ?
Hãy nhìn sông nước vẫn chảy về xuôi

Thắp sáng hồn em Lượt xem: 18130
19/12/2014 18:57
Hãy thắp sáng hồn em
Khi đêm nay ngọn gió mới giao mùa
Như một lần ta thắp môi em cháy đỏ
Bằng nụ hôn cay đắng tuyệt vời

Thiếu phụ Lượt xem: 17889
19/12/2014 18:56
Thiếu phụ ấy đi vào đời ta như một bài thơ không dấu chấm
Có hạnh phúc có khổ đau có bình yên ở trong lòng bão táp
Có mơ ước treo trên đầu sợi tóc
Nên chẳng bao giờ dám tính chuyện trăm năm

Thơ cho em Lượt xem: 20069
19/12/2014 18:54
Anh vẫn biết quê nhà em côi cút
Những sớm khuya vất vả nuôi con
Vì tuổi xuân ngày tháng hao mòn
Bao thương nhớ giận hờn nuối tiếc

Thương mình Lượt xem: 30314
19/12/2014 18:49
Về quê đã được sáu năm
Hai năm tù ngục bốn năm sống mòn
Bao nhiêu mộng ước hoài công
Dấu xưa hồ hải tang bồng còn đây

Tiễn vợ vào Nam Lượt xem: 23671
19/12/2014 18:47
Cũng vì cơm áo vì cuộc sống
Đầu năm chồng vợ phải chia tay
Én Bắc nhạn Nam trời sấm động
Nghĩ lại phận mình thẹn lắm thay

Trăn trở Lượt xem: 14709
19/12/2014 18:45
Dòng sông nào khi tìm về với biển
Cũng phải qua những khúc khuỷu nông sâu
Phải vặn mình chịu đựng những cơn đau
Chứa con nước lớn ròng trăn trở

Trường ca 10 năm Lượt xem: 20662
19/12/2014 18:44
10 năm qua đi
10 năm còn đó
Vũng thời gian thành lịch sử rồi em
Anh trở về với số phận gian nan

Từ đó Lượt xem: 30526
19/12/2014 18:43
Ta từ đó như loài còng khốn khó
Cũng hoài công xe mãi cát bên bờ
Em từ đó như nghìn cơn sóng vỗ
Cũng vô tình như nhát chém hư vô

Về lại nhà bạn Lượt xem: 21439
19/12/2014 18:41
Ta từ cái cõi xa xôi
Về đây ngồi lại chỗ ngồi năm xưa
Ngồi mà nhớ những đêm mưa
Ngồi mà nhớ những sớm trưa đi về

Hiển thị 611 - 620 tin trong 2121 kết quả