nguồn : http://vi.wikipedia.org
Đặng Thai Mai (1902-1984), còn được biết đến dưới tên gọi Đặng Thái Mai và những bút danh Thanh Tuyền, Thanh Bình. Ông là giáo sư, nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học Việt Nam; và nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học Việt Nam.
Đặng Thai Mai sinh ngày 25 tháng 12 năm 1902 tại làng Lương Điền (nay là Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nho học. Thân phụ ông là Đặng Nguyên Cẩn, đỗ phó bảng, tham gia phong trào Duy Tân cùng với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, bị thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo. Ông là hậu duệ của Tể tướng Đặng Dung, thuộc chi Tiến sĩ Đặng công Thiếp. [1]
Sau khi thân phụ bị bắt, ông về sống tại quê nội từ năm 6 tuổi, và được bà nội nuôi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước, học chữ Hán và chữ Quốc ngữ theo chương trình Đông Kinh nghĩa thục.
Năm 1925, khi đang theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương - Hà Nội, ông tham gia phong trào đòi "ân xá" Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, đồng thời gia nhập đảng Tân Việt.
Năm 1928, ông trở thành giáo sư Trường Quốc học Huế. Năm 1929, khi đảng Tân Việt tan vỡ, ông bị xử một năm tù treo, sau đó lại trở về dạy học ở Huế. Ông lại bị bắt năm 1930 và bị xử 3 năm vì tham gia phong trào Cứu tế đỏ. Sau khi ra tù, Đặng Thai Mai ra Hà Nội sống và dạy học tại trường tư Gia Long (1932).
Đến năm 1935, Đặng Thai Mai cùng với các bạn là Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp... lập ra Trường tư thục Thăng Long. Năm 1936, ông cùng Nguyễn Văn Tố, Vương Kiêm Toàn, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp... thành lập ra Hội truyền bá chữ Quốc ngữ.
Ông bắt đầu hoạt động văn hóa thời kì Mặt trận Dân chủ (1936-1939), viết báo và sáng tác một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp nêu gương các chiến sĩ cách mạng buổi đầu (Cô câm đã lên tiếng,Chú bé...).
Năm 1939, ông ứng cử Viện dân biểu Trung Kỳ. Năm 1944, ông cho ra đời tác phẩm Văn học khái luận - cuốn sách đầu tiên trình bày có hệ thống nhiều vấn đề lí luận văn học theo quan điểm tiến bộ, như điển hình và cá tính, nội dung và hình thức, truyền thống và hiện đại. Đặng Thai Mai cũng là người có công giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc qua các công trình Lỗ Tấn (1944), Tạp văn Trung Quốc (1944), các bản dịch kịch Lôi Vũ, Nhật xuất của Tào Ngu, Lịch sử văn học Trung Quốc hiện đại, tập 1 (viết năm 1958).
Sau Cách mạng tháng Tám, ông giảng dạy ở bậc đại học và nghiên cứu phê bình văn học. Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I, Ủy viên Ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1946 [1]. Cũng trong năm này, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trong các giai đoạn về sau, ông lần lượt giữ các chức vụ về văn hoá và giáo dục như Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa, Hội trưởng Hội văn hóa Việt Nam, Giám đốc Trường dự bị đại học và Sư phạm cao cấp Liên khu IV, Giám đốc trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị như Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20 (1960), Trên đường học tập và nghiên cứu (tập 1, 1959, tập 2, 1965 và tập 3, 1973).
Đặng Thai Mai có vốn nho học uyên thâm và am hiểu văn học cổ điển Pháp, văn học hiện đại Trung Quốc, văn học cận đại Việt Nam. Đặng Thai Mai là nhà lí luận phê bình sắc sảo. Năm 1982, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 1996, ông lại được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I) về các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới.[2]
Đặng Thai Mai mất ngày 25 tháng 9 năm 1984. Nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Mai Dịch
Đặng Thai Mai lập gia đình với bà Hồ Thị Toan. Hai ông bà có 5 con gái và 1 con trai, trong đó 3 con rể là tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam
Thương nhớ mênh mông
Lượt xem: 17209
21/12/2014 11:33
Đi với nhau đêm này
Để sáng mai bạn về Quảng Trị
Không nói gì sao mà bâng khuâng thế
Đêm Cà Mau chấp choáng đèn sông
Tình phương đông
Lượt xem: 29418
21/12/2014 10:55
Ngày xưa chị thương anh ấy
Vậy mà hai người hai nơi
Gặp chị, nao lòng tôi nhớ
Tình yêu anh chị một thời
Tình quê
Lượt xem: 29066
21/12/2014 10:53
Quê nhà sâu thẳm trong tâm tưởng
Ngày đêm sóng nhớ vỗ liên hồi
Tin nhỏ đôi dòng trên góc báo
Xao động lòng ta mãi không nguôi
Tôi chờ cho đến muôn sau
Lượt xem: 22386
21/12/2014 10:52
Tôi chờ cho đến muôn sau
Thế nào em cũng nói câu ân tình
Từ lâu mìh đã là mình
Yêu em tôi vẫn để dành em yêu
Trăng lạnh
Lượt xem: 27818
21/12/2014 10:52
Có một mùa trăng lạnh
Thơ gọi hồn người
Bụi tre buồn tư lự
Ai lang thang trên trời
Trên đường
Lượt xem: 31744
21/12/2014 10:51
Trên đường quên cả xe qua núi
Chợt tỉnh chỉ còn mưa gió thôi
Cha ơi!
Thân con ước được chia hai mảnh
Nửa ở miền Nam nửa ở quê
Trở về
Lượt xem: 47361
21/12/2014 10:51
Còn gì sau một chuyến đi
Tóc sương vương bụi nghĩ suy vương tình
Lời ai vọng giữa hồn mình
Bãi xa cát trắng cây xanh bóng người
Trong bệnh viện
Lượt xem: 24993
21/12/2014 10:50
Bạn đến thăm mình trong bệnh viện
Nói cười như thế thật là vui
Bạn về bóng bạn còn trên vách
Nhớ bạn mình riêng nỗi ngậm ngùi
Trong nội thành
Lượt xem: 20994
21/12/2014 10:49
Miếng ngói từ trăm năm cũ
Rêu xanh mọc kín bao giờ
Nghe tiếng chim trên cổ thụ
Hồn nhiên nụ cười trẻ thơ
Trong quán trọ
Lượt xem: 34272
21/12/2014 10:49
Khuya mưa nằm lạnh trong quán khách
Nghe tự xa xăm tiếng thở dài
Mai biết về đâu trong cõi tạm
Câu hỏi nghìn xưa đang hỏi ai
Hiển thị 111 - 120 tin trong 2154 kết quả