xvi. Nhà Lê Trung hưng (Vua Lê-Chúa Trịnh: 1593 - 1729)
1. Giao-thiệp buổi đầu với Trung-hoa
Mới sai sứ-giả cầu phong,
Nghe gièm, Minh hãy còn lòng tin-nghi.
Sai quan hội-khám một kỳ,
Phong làm Đô-thống, cơ-mi gọi là!
Phùng-Khoan sứ-tiết cũng già,
Biểu-từ biện-chiết thật đà thiết-minh.
Mấy lời ôn-dụ đinh-ninh,
Phong vương còn đợi biểu-tinh có ngày.
2. Trịnh-Tùng xưng chúa
Hổ lui, lang tới khéo thay!
Mạc kia vừa dẹp, Trịnh nầy lại lên.
Tùng xem căn-cứ đã bền,
Công-danh càng thịnh, uy-quyền càng cao.
Rỡ-ràng ngọc-sách, tinh-bao,
Gia-phong Nguyên-súy, dự vào sủng-chương
Bình-an lại tiến tước vương,
Gầy nên tiếm-thiết, mở đường khải-du.
Kính-Tông còn độ ấu-cô,
Đống-lương ai kẻ xanh-phù vạc Lê?
Triều-thần những lũ Bùi-Khuê,
Lại tìm Mạc-nghiệt theo về Kính-Cung.
Nghi-dương tro tắt lại nồng,
Thị-thành nổi áng bụi hồng bởi ai?
Nhân khi giá-ngự ra ngoài,
Thừa hư Mạc lại vào nơi đô-thành.
Quan-quân ra đánh lại bình,
Thặng-dư mới phát tự Thanh ngự về.
Chông gai tuy sạch mọi bề,
Mà trong quyền cả chuyên về một tay.
Bốn phương tai-biến đã đầy,
Đầm khô, núi lở, cát bay mù trời
Chẳng qua trăm sự tại người,
Gẫm cơ hưu-cữu biết đời thịnh-suy.
Súng đâu phục trước đường đi,
Để cho Trịnh-chúa lại nghi Lê-hoàng.
Sinh con gặp đứa vô-lương,
Châu-liên sao nỡ quên đường quân-thân?
3. Trịnh-Tráng tăng quyền phủ chúa
Thừa gia theo lối cường-thần,
Vua Lê, chúa Trịnh nhân-tuần đã quen,
Thần-tông vừa mới cải-nguyên,
Sách-phong Trịnh-Tráng đã ban từ giờ.
Thành-đô quyền trọng hơn xưa,
Nhà Lê cũng một giải thừa mà thôi!
Nước nhà đang buổi yên vui,
Xin vua xuống chiếu truyền ngôi nhẽ gì?
Chẳng qua là dạ gian-khi,
Làm cho rõ mặt phúc-uy tự nhà.
Chân-Tông tuổi mới mười ba,
Hững-hờ quyền chúa, ngôi cha mặc lòng.
Quốc-vương Minh mới cải-phong,
Bảy năm lịch-số vừa chung một đời
Xoay quanh mới tỏ đạo trời,
Báu thiêng đem lại cho người truyền gia
Thần-tông thay giữ nghiệp nhà,
Thượng-hoàng lại đổi mặt ra tân-hoàng.
Thờ-ơ cờ đạo nhà vàng,
Chính-quyền phó mặc Trịnh-vương, biết gì.
Nhà Minh thuở ấy đã suy,
Mượn binh lại sắp nhờ uy cường-thần.
Sắc phong chiếu-dụ ân-cần,
Phó-vương Trịnh lại thêm phần tôn-vinh.
Cả giầu sang, lớn quyền-hành,
Giang-sơn chung một triều-đình chia đôi.
4. Trịnh-Tạc đánh Nguyễn và Mạc
Tiếm phong, Trịnh-Tạc nối ngôi,
Tước vương mình lại tài-bồi cho con.
Càn-cương ngày một suy-mòn,
Cuộc đời chìm nổi, ai còn hiệu-trung,
Bản-triều mở dấu Kỳ-phong,
Thánh-thần truyền dõi một lòng tôn Lê.
Quyền-gian giận Trịnh nhiều bề,
Sắc sai Chiêu, Thuận khắc-kỳ tiến-chinh.
Sáu năm rồi mới bãi-binh,
Lũy dài còn dấu uy-linh để truyền.
Vận Lê còn buổi truân-chuyên,
Huyền-tông thơ ấu để quyền Tây-vương.
Đẳng-uy đã biến lễ-thường,
Vào chầu không lạy, miếu-đường có ai?
Thiên-nhan lại muốn sánh vai,
Giường ngồi đem đặt bên nơi ngự-tiền.
Dọc ngang dưới phủ trên đền,
Mống tình cải-bộ gây nền tranh-vương.
Vũ-công lại muốn phấn-dương,
Đem quân đánh Mạc lại sang Cao-bình.
Mạc vào cầu-viện Yên-kinh,
Phong làm Đô-thống tung-hoành cõi xa.
Bốn châu riêng một sơn-hà,
Danh tuy phụ Hán, thực là thê Ngô.
Gia-tông vừa nối cơ-đồ,
Xe loan đã giục trì-khu ra ngoài.
Phòng-biên đã có tướng tài,
Quân ta một trận, lũy dài phá tan,
Mã-đầu đã trở quy-an,
Hà-trung Trịnh lại đặt quan lưu-đồn.
5. Trịnh-Căn và nhà Thanh
Về nhà lập lại Trịnh-Côn (Căn)
Nam-vương theo lối quyền-môn một dòng.
Đêm ngày bí-các thong-dong,
Văn-thần thay đổi vào trong chực hầu,
Quốc-Trinh tham-tụng ở đầu,
Bởi sao nên nỗi gây thù ưu-binh?
Hy-tông hoàng-đệ thay anh,
Ngôi không luống giữ, quyền hành mặc ai!
Bấy lâu chiếm giữ cõi ngoài,
Hãy còn Mạc-nghiệt mấy đời đến nay.
Di-thư sang với Quảng-tây,
Một lần hội-tiễu từ này chạy xa.
Quân Thanh xâm chiếm đất ta,
Vị-xuyên, Bảo-lạc, Nà-oa, Lộc-bình.
Thổ-quan lại có tư-tình,
Tham vàng đem giới-kệ chuyển-di.
6. Triều thần nhà Lê
Bên ngoài xâm-tước nhiều bề,
Ở trong chính-sự chỉnh-tề được bao?
Lễ gì hơn lễ bang-giao,
Mà cho quan thị đứng vào đầu ban.
Thế mà những kẻ cư-quan,
Cũng đành ngoảnh mặt cho toàn tôn-vinh.
Tại triều mấy kẻ trâm-anh,
Nguyễn-Đang, Đồng-Trạch công-thanh một đường.
Thế-Vinh tài học ưu-trường,
Nguyễn-Hành, Hà-Mục văn-chương cũng già.
Bởi ai thiên-hạ âu-ca,
Chẳng quan tham-tụng Vãn-hà là chi?
Bởi ai thiên-hạ sầu-bi,
Chẳng quan tham-tụng Lê-Hy hãnh-thần?
Tính đi nghĩ lại xa gần,
Nhiều phần vì Trịnh, ít phần vì Lê.
Mồi giầu sang đã say mê,
Lấy ai chỉ-trụ làm bia trong đời!
7. Những việc cải-cách về thời Trịnh-Cương
Dụ-tông nối giữ ngôi trời,
Trịnh Cương chuyên chế theo loài cố-gia
Lục-phiên lại đặt tư-nha,
Bao nhiêu tài-phú đều là về tay.
Các quan trấn-thủ mới thay,
Hưng Tuyên thống-hạt từ rầy chia hai.
Vũ-thần mỗi trấn một người,
Để cho vững thế mặt ngoài phiên-ly.
Lấy năm điều khảo trấn-ti,
Cứ trong điến-tối mà suy hay hèn.
Thẩm hình đặt viện phủ-tiền,
Sai quan tra kiện thay quyền pháp-ti.
Vũ-khoa mới đặt phép thi,
Hỏi đường thao-lược, thử nghề dao-cung.
Ba trường phúc-thí đã xong,
Đề danh tạo-sĩ bảng rồng cũng vinh.
Kén thêm tứ-trấn binh đinh,
Vệ-quân mới đặt sáu dinh từ rầy.
Công-tư điền-thổ xưa nay,
Sai quân khám-đạc san tay dân cùng
Tuần-hành có sứ khuyến-nông.
Giữ-gìn đê-lộ, xét trong dân-tình.
Đem thư biện với nhà Thanh,
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về ta.
Lập bia trên Đổ-chú-hà,
Giới-cương tự đó mới là phân-minh.
Qui-mô cũng muốn sức bình,
Mà lòng lăng-tiếm tự mình ra chi?
Lập phủ-đường ở Cổ-bi,
Toan đem kinh-quốc dời về cố-hương
Đông-cung đã lập Duy-Tường,
Bỗng không lại đổi Duy-Phường cớ sao?
Mây đầu ô
Lượt xem: 32440
20/12/2014 18:46
Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi ! Chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Một phút thoáng qua.
Lượt xem: 23653
20/12/2014 18:45
Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau ?
Đôi phen số mệnh cũng cơ cầu
Người đi mang nửa hồn đơn lẻ
Tôi về hoài vọng một đôi câu
Một phút thoáng qua.
Lượt xem: 29002
20/12/2014 18:44
Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau ?
Đôi phen số mệnh cũng cơ cầu
Người đi mang nửa hồn đơn lẻ
Tôi về hoài vọng một đôi câu
Mưa
Lượt xem: 24492
20/12/2014 18:43
Chợt mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cành hoa mơ
Ðất trắng ngàn cánh rụng
Tiếng quân hò thôn xa
Ngôi nhà Quang Dũng ở Sơn Tây
Lượt xem: 14475
20/12/2014 18:42
Phan Lạc Tiếpbr>
Quang Dũng, từ trước tới nay vẫn được biết đến là một nhà thơ Sơn Tây. Anh đã mang hình ảnh của Sơn Tây vào đầy ắp những thi phẩm của mình. “Em từ thành Sơn chạy giặc về - Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm - Cách biệt bao lần quê Bất Bạt, Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì - Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn. Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng ...” Nhưng thực ra quê hương Quang Dũng không phải là Sơn Tây, mà là Hà Đông. Quang Dũng đã lớn lên trong căn nhà nằm ở ven con đê Hiệp, thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông. Đúng như thế. Nhưng tại sao trong thơ của Quang Dũng lại chỉ nói đến Sơn Tây mà ngược lại không tìm thấy hình ảnh nào của Hà Đông cả. Để hiểu nguyên nhân trên, có lẽ phải lấy Hà Nội làm khởi điểm.
Những cô hàng xén
Lượt xem: 23120
20/12/2014 18:38
Rặng vải ven sông Đáy
Um tùm bóng cuối xuân
Sông cạn phơi lòng cát trắng
Người qua nâng váy ôm quần
Quán bên đường
Lượt xem: 27449
20/12/2014 18:36
Tôi khách qua đường, trưa nắng gắt.
Nghỉ nhờ đây quán lệch tường xiêu
Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu.
Mùa gạo đắt, đường xa, trưa vắng khách
Suối tóc
Lượt xem: 31506
20/12/2014 18:36
Thuở ấy em ngồi trên cửa gác,
Tóc buông hong với gió đầu thu
Nhẹ nhàng anh đến hồn chan chứa
Ghi vội vàng em mấy nét thơ...
Tây tiến
Lượt xem: 33018
20/12/2014 18:35
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Thơ tặng ông lang
Lượt xem: 22850
20/12/2014 18:34
Gian khổ đường ta ta cứ đi
Vững tâm theo kháng chiến trường kỳ
Trắng trong nguyền giữ lòng cam thảo
Son sắt càng thơm dạ quế chi
Hiển thị 441 - 450 tin trong 2285 kết quả