 
    xix. Nhà Nguyễn Tây-Sơn (1787 - 1802)
	1. Quân Tây-sơn ra Bắc lần thứ hai
	
	Bốn phương lại động khói lang,
	Ngụy-Tây riêng mặt bá-vương một trời,
	Nhạc, Qui-Nhơn; Lữ, Đồng-nai;
	Quảng-Nam, Nguyễn-Huệ; trong ngoài chia nhau.
	Nhân cơ lại dấy qua-mâu,
	Văn-Nhâm vâng lệnh quân-phù kéo ra.
	Qua Nghệ-an, đến Thanh-hoa,
	Thổ-sơn giáp trận Trinh-hà áp binh.
	Giặc ra đến đất Ninh-bình,
	Chỉnh đem hai vạn tinh-binh quyết-liều.
	Một đêm thuyền trái buồm xiêu,
	Vì con sơ-suất, đền điều thua công.
	
	2. Lê-Chiêu-Thống chạy dài
	
	Văn-Nhậm kéo đến Thăng-long,
	Lê-Hoàng thảng-thốt qua sông Nhị-hà.
	Bắc-ninh cũng đất dân nhà.
	Bạc thay Cảnh-Thước sao mà bất-nhân!
	Nỡ nào quên nghĩa cố-quân
	Đóng thành không rước, sai quân cướp đường.
	Ngự-bào cũng nhuộm mầu sương,
	Nguyệt-giang, Mục-thị nhiều đường gian-nguy.
	Tây-binh thừa-thế cùng-truy,
	Cha con Nguyễn-Chỉnh một kỳ trận-vong.
	Bắt phu canh giữ bên sông,
	Kìa Dương-Đình-Tuấn cũng mong phù-trì.
	Chước đâu phản-gián mới kỳ,
	Để cho xa-giá chạy về Chí-linh.
	Vội-vàng chưa định hành-dinh,
	Mà Đinh-Tích-Nhưỡng nỡ tình đuổi theo!
	Giải vây lại có thổ-hào,
	Lũ Hoàng-Xuân-Tú cũng đều cần-vương,
	Thừa-dư vừa đến Thủy-đường,
	Kẻ về tấu-tiệp, người sang đầu-thành.
	Bỗng đâu thuyền bạt vào Thanh,
	Nước non man-mác, quân-tình ngẩn-ngơ.
	
	3. Nguyễn-Huệ đặt chức Giám quốc ở Bắc-hà
	
	Văn-Nhâm tự ấy lại giờ,
	Vỗ-về sĩ-tốt, đợi chờ chúa-công.
	Huệ sao tàn-nhẫn cam lòng,
	Một gươm nỡ quyết chẳng dong tướng-thần.
	Mới đòi hào-mục xa gần,
	Xem nhân-tình có mười phần thuận khộng?
	Nguyễn Huy-Trạc cũng hào-hùng,
	Một thang tiết-nghĩa quyết lòng quyên-sinh.
	Biết thiên-hạ chẳng thuận-tình,
	Lập người giám-quốc đem binh lại về.
	
	4. Quân nhà Thanh sang nước ta
	
	Lê-Hoàng truân-kiển nhiều bề,
	Mẹ con cách-trở biết về nơi đâu?
	Thái-từ lạc tới Long-châu,
	Thổ-quan dò hỏi tình-đầu thủy-chung.
	Cứ lời đạt đến Quảng-đông,
	Gặp Tôn Sĩ-Nghị cũng lòng mục-lân,
	Một phong biểu tấu chín lần,
	Càn-long có ý ân-cần vì Lê.
	Đền rồng ban ấn tử-nê,
	Đem quân bốn tỉnh trao về một tay.
	Nam quan thẳng lối đường may,
	Tắt qua trấn Lạng, sang ngay sông Cầu.
	Tập-công phá trại Nội-hầu,
	Theo đường Kinh-bắc, tới đầu Nhị-giang.
	Rượu trâu đâu đã sẵn sàng,
	Vua Lê mừng thấy đón đàng khao binh.
	Tôn-công quân lệnh túc-thanh,
	Tơ hào chẳng phạm, tấm thành cũng phu
	Qua sông mới bắc cầu phù,
	Tây-luông quân đóng, Đông-đô ngự vào.
	Quốc-vương sẵn ấn tay trao,
	Truy-tùy thưởng kẻ công-lao nhọc nhằn.
	
	5. Triều-đình thời Lê-mạt
	
	Bao nhiêu hào-kiệt xa gần,
	Đua nhau đều đến cửa quân đầu-thầm
	Xưa sao vắng-vẻ hơi tăm!
	Rầy sao hiệp-lực đồng-tâm lắm người!
	Viêm-lương mới tỏ thói đời.
	Dạ trong đã chán, mặt ngoài cũng khinh.
	Song mà ỷ thế nhà Thanh.
	Thờ-ơ với kẻ nước mình mặc ai!
	Cơ-mưu những chắc lưng người.
	Để cho đất nước trong ngoài mất trông!
	
	6. Quang-Trung đại-phá quân Thanh
	
	Quân Thanh đã được Thăng-long,
	Một hai rằng thế là xong việc mình.
	Dùng-dằng chẳng chịu tiến binh,
	Nhác đường phòng-thủ, mống tình đãi-hoang.
	Ngụy Tây nghe biết sơ-phòng,
	Giả điều tạ-tội, quyết đường cất quân.
	Dặm tràng nào có ai ngăn,
	Thừa hư tiến bức đến gần Thăng-long.
	Trực-khu đến lũy Nam-đồng,
	Quan Thanh dẫu mấy anh-hùng mà đang?
	Vua Lê khi ấy vội-vàng,
	Cùng Tôn-Sĩ-Nghị sang đàng Bắc-kinh.
	Qua sông lại sợ truy-binh,
	Phù-kiều chém dứt, quân mình thác oan.
	
	7. Cuộc lưu-vong của Lê-Chiêu-thống
	
	Ngẩn-ngơ đến ải Lạng-sơn,
	Theo sau còn có quân-quan mấy người.
	Cầm tay Sĩ-Nghị than giài,
	Vì mình kiển-bộ nên người luống công,
	Nhẽ đâu lại giám bận lòng,
	Xin về đất cũ để mong tái-đồ.
	Tôn-công cũng có tiên-trù,
	Đã dâng một biểu xin cầu viện-binh.
	Quế-lâm còn tạm trú mình,
	Bỗng đâu nghe chiếu nhà Thanh triệu về.
	Phụng-sai có sứ hộ-tùy,
	Sự đâu lại gặp những bề trở-nan.
	Sứ-thần là Phúc-Khang-An,
	Đã e xa cách, tại toan dối lừa.
	Dần-dà ngày tháng thoi đưa,
	Lê-hoàng luống những đợi chờ Yên-kinh.
	Tấc-gang khôn tỏ sự tình,
	Dẽ xem xon Tạo giúp mình hay không?
	Từ khi tam-phẩm gia-phong,
	Mới hay Thanh-đế cam lòng thế thôi!
	Lỡ-làng đến bước xa-xôi,
	Nhưng trong đạo chúa nghĩa tôi chẳng dời.
	Lê-Hân, Lê-Quýnh mấy người,
	Như-Tòng, Ích-Hiểu cũng lời thệ-minh,
	Tòng-vong đều kẻ trung-trinh,
	Mã-đồng khen cũng có tình tôn quân.
	Vua Lê phút lánh cõi trần,
	Non sông cách diễn mấy lần xa xa,
	Bình Tây nhờ Thánh-triều ta,
	Kẻ gần an chốn, người xa tìm về,
	Sang Thanh mấy kẻ theo Lê,
	Còn ai cũng động lòng quê ngậm-ngùi.
	Vận Lê đến thế là thôi,
	Ba trăm sáu chục năm rồi còn chi?
	
	8. Tổng kết
	
	Mới hay có thịnh, có suy,
	Hang sâu, núi cả có khi đổi dời.
	Trước sau tính lại trăm đời,
	Có trời, có đất, có người chủ-trương.
	Khai-tiên là họ Hồng-Bàng,
	Thụy thay, Triệu đổi thường thường suy-di,
	Rồi ra hợp hợp chia chia,
	Trải Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê mấy đời,
	Thiếu chi chuyện vãn đầy vơi!
	Hiếm điều đắc-thất, hiếm người thị-phi!
	Lại còn nhiều việc tín-nghi,
	Sự muôn năm cũ chép ghi rành-rành.
	Bút son vâng mệnh đan-đình,
	Gác lê lần giở sử xanh muôn đời.
	Chuyện xưa theo sách diễn lời,
	Phải chăng xin đã gương Trời rạng soi.
	
	Đại Nam Quốc Sử diền ca
	Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái
        
        
            Chơi chợ trời Hương Tích
            Lượt xem: 37361
        
        
        18/12/2014 21:06
        
            Ai đi Hương Tích chợ trời đi !
Chợ họp quanh năm cả bốn thì
Đổi chát người tiên cùng khách bụt
Bán buôn gió chị lại trăng dì
        
    
        
        
            Chơi núi non nước
            Lượt xem: 34837
        
        
        18/12/2014 21:05
        
            Chom chỏm trên sông đá một hòn
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn ?
Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con
        
    
        
        
            Than mùa hè
            Lượt xem: 38929
        
        
        18/12/2014 21:05
        
            Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả
        
    
        
        
            Vịnh mùa hè
            Lượt xem: 44492
        
        
        18/12/2014 21:04
        
            Biếng trông trời hạ nước non xa,
Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ
Cá vượt khóm rau lên mặt nước
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa
        
    
        
        
            Thu ẩm
            Lượt xem: 39521
        
        
        18/12/2014 21:03
        
            Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
        
    
        
        
            Nhớ cảnh chùa Đọi
            Lượt xem: 27008
        
        
        18/12/2014 21:03
        
            Già yếu xa xôi bấy đến nay
Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay !
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây
        
    
        
        
            Mừng ông nghè mới đỗ
            Lượt xem: 34832
        
        
        18/12/2014 21:02
        
            Anh mừng cho chú đỗ ông nghè
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe
Ân tứ dám đâu coi rẻ rúng
Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe
        
    
        
        
            Thầy đồ ve gái góa
            Lượt xem: 30754
        
        
        18/12/2014 21:01
        
            Người bảo rằng thầy yêu cháu đây,
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay !
Bắc cầu, câu cũ không hờ hững,
Cầm kính, tình xưa vẫn đắng cay
        
    
        
        
            Muốn lấy chồng
            Lượt xem: 21596
        
        
        18/12/2014 21:00
        
            Bực gì bằng gái chực phòng không ?
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng
Trên gác rồng mây ngao ngán đợi
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông
        
    
        
        
            Hoài cổ
            Lượt xem: 31653
        
        
        18/12/2014 20:58
        
            Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười
Sự đời đến thế, thế thời thôi !
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người
        
    
Hiển thị 981 - 990 tin trong 2282 kết quả