Thơ

xi. Nhà Trần (Thời kỳ thịnh trị: 1226 - 1340)

1. Những việc cải cách đầu tiên

Đông-A tỏ mặt vừng hồng,
Thái-tông cải hiệu Kiến-trung rõ-ràng.
Trần-Thừa là Thái thượng-hoàng,
Chuyên quyền thính-đoán , gồm đường kinh-luân.
Soạn làm thông chế lễ-văn ,
Thuế điền đã định, số dân cũng-tường.
Tướng-thần mới đặt bình-chương ,
Huyện châu sai kẻ khoa-trường trị dân,
Bạ-đầu thi kẻ lại-nhân.
Hiệu-quân Tứ-thánh, Tứ-thần mới chia.
Hà phòng rày mới có đê,
Trăm quan áo mạo, dù xe thêm tường.
Việc ngoài đánh dẹp bốn phương,
Phó cho Thủ-Độ chuyên đường trị dân.

2. Văn-học và võ-công

Thượng-hoàng phút đã từ-trần,
Thái-tông tuổi mới đến tuần mười hai.
Cao-minh đã có tư trời ,
Lại thêm Thủ-Độ vẽ vời khôn-ngoan.
Sùng-văn , tô tượng Khổng, Nhan ,
Dựng nhà Quốc-học , đặt quan Giám-thần ,
Bảy năm một hội-thanh-vân ,
Anh-tài náo-nức dần dần mới ra.
Trạng-nguyên, bảng-nhỡn, thám-hoa,
Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái-học chư-sinh,
Lại thi tam-giáo chia rành ba khoa.
Thân-chinh trỏ ngọn thiên-qua ,
Chiêm nam, Nguyên bắc đều là dẹp tan.

3. Phong-tục đời Trần

Vì ai, đạt gánh giang-san?
Mà đem cố chúa gia oan nỡ nào!
Chiêu-hoàng duyên trước làm sao?
Gả đi bán lại , coi vào khó nghe!
Phép nhà chẳng sửa buồng the,
Vợ anh sao nỡ đem về hậu-cung
Bởi ai đầu mở hôn-phong,
Khiến nên một đạo khuê-phòng thẹn riêng!
Thuần-bôn dong thói ngửa-nghiêng,
Họ-đương lấy lẫn nào kiêng sợ gì.
Thiên-Thành công-chúa vu-quy,
Sao Trần Quốc-Tuấn cướp đi cho đành?
Sính-nghi đem tiến thiên-đình
Thụy-bà lăng-líu, Trung-Thành ngẩn-gơ:
Dị-đoan mê-hoặc khôn chừa,
Chùa tô phật-tượng, đình thờ Thích-ca.
Tin lời phong-thủy khi tà,
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Lễ đâu yến-ẩm quá say,
Đội mo rót rượu, dan tay vui cười.
Ba mươi năm chán cuộc đời,
Truyền cho con nối, ra ngoài Bắc-cung.

4. Đức-độ và chánh-trị của Trần-Thánh-tông

Thánh-tông hiếu-hữu một dòng,
Sớm hôm chầu chực, mát nồng thảnh-thơi.
Anh em đệm cả gối dài,
Sân trong yến-lạc , cõi ngoài ấm-phong.
Một thiên truyền thụ phép lòng,
Di-mưu cho kẻ nối dòng ngày sau.
Văn-nho khuya sớm giảng-cầu,
Kẻ tu sử-ký, người chầu kinh-diên.
Bề ngoài nghiêm việc phòng biên,
Kén quân đoàn-luyện tập thuyền Cửu-sa.

5. Trần-Hưng-Đạo phá Mông-Cổ

Trao-truyền theo lối phép nhà,
Nhân-tông hùng-lược lại là tài hơn,
Rợ Nguyên quen thói tham-tàn,
Quân năm mươi vạn, những toan tranh-hành,
Sắc sai Hưng-Đạo tổng binh,
Với Trần-Quang-Khải các dinh tiến vào.
Chương-dương một trận phong-đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm-quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc, uy-phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ-tống binh thuyền lại sang.
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng-Đạo đã anh-hùng,
Mà Trần-Nhật-Duật kể công cũng nhiều.
Hoài-Văn tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần-Bình-Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam-quỷ, không lòng Bắc-vương.
Khuyển-ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết-Kiêu, Dã-Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc-diệp kim-chi,
Lũ Trần-Ích-Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến-cố vội-vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi dàng tỏ ra,
Trùng-hưng đem lại sơn-hà,
Đã hay thiên-tướng cũng là tài sinh.
Nước nhà khi ấy thanh-bình,
Truyền ngôi thái-tử, lánh mình Ngọa-vân.

6. Anh-tông và Minh-tông

Anh-Tông nối giữ nghiệp Trần,
Trong tu văn-đức, ngoài cần vũ-công.
Có châm để dạy Đông-cung.
Thủy-vân có tập vui cùng bút nghiên.
Ví không mến phật, say thiền,
Cũng nên một đứng vua hiền Đông-A.
Quyện-cần rồi lại xuất-gía,
Minh-tông kế-thống cũng là hiền-vương.
Mười lăm năm giữ phép thường,
Rạng nền nếp cũ, mở giường-mối sau.
Tiếc không biện-biệt ngư-châu
Để cho tà-nịnh ở đầu giai-ban.
Khắc-Chung thêm dệt lời gian,
Quốc-Chân mắc phải tiếng oan thiệt mình.

7. Việc đánh dẹp về đời Hiến-tông

Hiến-tông làm máy lung-linh,
Nghiêm xem tinh-độ vận-hành không sai.
Thạch-đê mới đắp đường dài,
Nước sông thuận lối về ngoài biển Đông.
Thừa bình lại hiếu vũ-công,
Đà-giang xa-mã, Nam-nhung tinh-kỳ
Cổ-quăng mấy kẻ truy-tùy,
Nhữ-Hài, Chiêu-Nghĩa đều về thủy-cung
Kiềm-châu có đá kỷ công,
Oán dày vẻ triện, sầu đông ngấn rều.

Các tác phẩm khác

Vụn vặt Lượt xem: 24440
18/12/2014 09:45
Nhất áp xuân giao vạn lý tình
Đoạn trường phương thảo đoạn trường oanh
Nguyện tương song lệ đề vi vũ
Minh nhật lưu quân bất xuất thành

Xóm ngự viên Lượt xem: 19492
18/12/2014 09:42
Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
Giậu đổ dây leo suồng sã quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng

Xuân tha hương Lượt xem: 14535
18/12/2014 09:27
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi, chị một em, em một chị
Trời làm xa cách mấy con sông

Xuân về Lượt xem: 21516
18/12/2014 09:26
Đã thấy xuân về với gió đông.
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong

Đôi dòng tiểu sử Lượt xem: 17364
18/12/2014 09:07
Nguyễn Bính sinh năm 1919 ở làng Thiện Vịnh huyện Vụ Bản Nam Ðịnh, không hề dến trường, chỉ học ở nhà với cha và cậu.
Ông làm thơ năm 13 tuổi, tổng cộng gần một ngàn bài. Ðược giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn năm 1937.
Thơ đã đăng ở : Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ bảy, Nam cường.
Ðã xuất bản: Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi, Hương cố nhân.

Tựu trường Lượt xem: 12784
18/12/2014 09:04
Những nàng thiếu nữ sông Hương
Da thơm là phấn môi hường là son
Tựu trường san sát chân thon
Lao xao nón mới màu sơn sáng ngời

Cô hàng xóm Lượt xem: 30164
18/12/2014 09:03
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có dậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.

Lỡ bước sang ngang Lượt xem: 14732
18/12/2014 08:12
"Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa.

Tiếng trống đêm xuân Lượt xem: 9961
18/12/2014 08:11
Chiều xuân, mưa bụi nghiêng nghiêng
Mưa không ướt áo người xem hội làng.
Khen ai nhuộm nhiễu Tam Giang
Đánh dây xà tích cho nàng chơi xuân.

Đôi nhạn ! Lượt xem: 40451
18/12/2014 00:29
Một bông cúc nở trong vườn vắng
Gió lạnh ngàn phương lướt thướt về
Lá úa dần mòn rơi rụng hết
Sương mù giăng mắc lụa lê thê

Hiển thị 1161 - 1170 tin trong 2290 kết quả