v. Giao Châu trong thời Bắc thuộc (43 - 544)
1. Chính sách nhà Đông Hán
Trải Minh, Chương đến Hiếu, An ,
Tuần-lương đã ít, tham-tàn thiếu đâu.
Mới từ Thuận-đế về sau,
Đặt quan thứ-sử thuộc vào chức phương .
Kìa như Phàn-Diễn, Giả-Xương,
Chu-Ngu, Lưu-Tảo dung thường kể chi.
Trương-Kiều thành tín phủ-tuy ,
Chúc-Lương uy đức, man di cũng gần.
Hạ-Phương ân-trạch ngấm nhuần,
Một châu tiết-việt hai lần thừa tuyên.
2. Lý-Tiến, Lý-Cầm làm quan nhà Hán
Tuần-lương lại có Mạnh-Kiên,
Khúc ca Giả-phủ vang miền trung-châu.
Ba năm thăng trạc về chầu,
Thổ quan Lý-Tiến mới đầu Nam-nhân.
Sở kêu:" Ai chẳng vương-thần,
Sĩ-đồ chi để xa gần khác nhau?"
Tình-từ động đến thần-lưu,
Chiếu cho cống-sĩ bổ châu huyện ngoài.
Lý-Cầm chầu-chực điện-đài,
Nhân khi Nguyên-đán kêu lời xa-xôi.
Rằng:" Sao phủ-tái hẹp-hòi?
Gió mưa để một cõi ngoài < a href=" #20" >Viêm-phương " .
Tấm-thành cũng thấu quân-vương,
Trung-châu lại mới bổ sang hai người.
Nước Nam mấy kẻ nhân-tài,
Mới cùng người Hán chen vai từ rày.
3. Họ Sĩ tự-chủ
Lửa lò Viêm-Hán gần bay,
Thế chia chân vạc, nào hay cơ trời.
Tranh nhau ba nước ba nơi,
Cầm quyền sinh-sát mặc người phong-cương.
Nho-lưu lại có Sĩ-vương,
Khơi nguồn Thù-Tứ , mở đường lễ-văn.
Phong-tiêu rất mực thú-thần,
Sánh vai Đậu-Mục, chen chân Triệu-Đà.
Sĩ-Huy nối giữ tước nhà,
Dứt đường thông-hiếu, gây ra cừu-thù.
Cửa hiên phút bỗng hệ-tù,
Tiết-mao lại thuộc về Ngô từ rầy.
4. Bà Triệu-Ẩu đánh Ngô
Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục-Dận sang thay phiên-thần.
Anh-hùng chán mặt phong trần,
Nữ-nhi lại cũng có lần cung-đao.
Cửu-chân có ả Triệu-kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn người.
Gặp cơn thảo-muội cơ trời,
Đem thân bồ-liễu theo loài bồng tang.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn-thôn mấy cõi chiến-trường xông-pha.
Chông gai một cuộc quan-hà ,
Dù khi chiến-tử còn là hiển-linh.
5. Ngô Tấn tranh nhau Giao-Châu
Từ giờ Ngô lại tung hoành,
Đặt làm Giao, Quảng hai thành mới phân.
Tôn-Tư rồi lại Đặng-Tuân,
Lữ-Hưng, Dương-Tắc mấy lần đổi thay.
Đổng-Nguyên, Lưu-Tuấn đua tay,
Kẻ Ngô, người Tấn những ngày phân-tranh.
Đào-Hoàng nối dựng sứ-tinh,
Tân-xương, Cửu-đức, Vũ-bình lại chia.
Mười năm chuyên mặt phiên-ly,
Uy gia bốn cõi, ân thùy một châu.
Khi đi, dân đã nguyện-lưu ,
Khi già, thương khóc khác nào từ-thân.
6. Chính-sách nhà Tấn
Ngô-công nối dấu phương-trần ,
Hai mươi năm lẻ nhân-tuần cũng yên.
Dân tình cảm-kết đã bền,
Tước nhà Cố-Bật lại truyền Cố-Tham.
Dân tình khi đã chẳng kham,
Dẫu là Cố-Thọ muốn làm ai nghe.
Quận-phù lại thuộc Đào-Uy,
Rồi ra Đào-Thục, Đào-Tuy kế truyền.
Bốn đời tiết-việt cầm quyền,
Phiên-bình muôn dặm, trung hiền một môn.
Tham tàn những lũ Vương-Ôn,
Binh qua nối gót, nước non nhuộm trần.
Tấn sai đô-đốc tướng-quân,
Sĩ-Hành là kẻ danh thần chức cao.
Dẹp yên rồi lại về trào,
Uy-danh nào kém họ Đào thuở xưa.
Nguyễn-Phu tài trí có thừa,
Phá năm mươi lũy tảo-trừ giặc Man.
7. Họ Đỗ ba đời làm thứ-sử
Châu-diên lại có thổ-quan,
Đỗ-công tên Viện dẹp đoàn Cửu-chân.
Tướng-môn nối chức phiên thần,
Con là Tuệ-Độ thêm phần uy-danh.
Bổng riêng tán-cấp cùng-manh,
Cơm rau áo vải như hình kẻ quê.
Dâm-từ cấm thói ngu-mê,
Dựng nhà học-hiệu giảng bề minh-luân.
Ân-uy ra khắp xa gần,
Cửa thành đêm mở, gió xuân một trời.
Hoàng-Văn phủ-ngữ cũng tài,
Một nhà kế-tập ba đời tuần-lương.
8. Giao-châu loạn
Đến triều Lưu-Tống hưng vương,
Hòa-Chi, Nguyên-Cán sai sang hội đồng.
Đuổi Dương-Mai, giết Phù-Long,
Khải ca một khúc tấu công về trào.
Gió thu cuốn bức chinh-bào,
Y-thường một gánh, qui-thiều nhẹ không.
Từ khi vắng kẻ chiết-xung,
Tràng-Nhân, Lưu-Mục tranh hùng mấy phen.
Pháp-Thừa cũng chức tuần-tuyên,
Những chăm việc sách để quyền lại-ty.
Dưới màn có Phục-đăng-Chi,
Cướp quyền châu-mục, lộng uy triều-đình.
Tề suy, Nguyên-Khải tung hoành,
Hùng-phiên chiếm giữ cô-thành một phương.
Bắc triều đã thuộc về Lương,
Lại sai Lý Thốc chiêu hàng nẻo xa.
Giao-châu một giải sơn-hà,
Ái-Châu lại mới đặt ra từ rày.
Một chân trời quên lãng
Lượt xem: 24314
20/12/2014 15:45
Hồ Zếch (1917-1991)
Viễn vọng kính không gian vừa phóng đi sao Mộc
khái niệm chân trời quên lãng phía xa xăm
đời tất bật, ai nhọc công ngồi đọc
ngoảnh lại tìm chân trời cũ đăm đăm.
Khúc độc hành
Lượt xem: 23184
20/12/2014 15:44
Quang Dũng (1921-1988)
Chợt nhớ một miền chân chưa đặt
nhập vô quá khứ của bao người
mây núi như còn trong thủy mạc
quân đi như thuở "kỷ nhân hồi"
Sóng vẫn gầm trong tiếng cọp gầm
Lượt xem: 22844
20/12/2014 15:42
Nguyên Hồng (1918-1982)
Những con chữ loạn đả trên trang
vì đói, vì rét
ông chỉ phong lưu nước mắt
mang ra tế bần
Thi sĩ chân quê
Lượt xem: 13858
20/12/2014 15:41
Nguyễn Bính (1919-1966)
Hình như vắng thắt lưng xanh
mùa xuân dường cũng bớt thanh đôi phần
vắng yếm sồi, ngực thanh tân
hình như cũng có đôi phần lỏng lơi...
Người về viên tĩnh viên
Lượt xem: 16235
20/12/2014 15:40
Chế Lan Viên (1920-1989)
Dẫu đã biết thi nhân từng trận mạc
vóc ngang tầm chiến lũy một thời trai
vẫn muốn ông thêm một lần ru hát
sau trăm dặm biển trời, cò đậu mát tao nôi.
Đúc thơ câu sắt nguội
Lượt xem: 17112
20/12/2014 15:38
Hồng Nguyên (1924-1954)
Tay chặt sắt đường tàu
đúc câu thơ sắt nguội
ba lô mòn nắng mưa
thơ còn nguyên cốt lõi.
Bồng con - bồng súng
Lượt xem: 20796
20/12/2014 15:38
Nguyễn Thi (1928-1968)
Người mẹ nào cũng muốn bồng con
sao có lúc phải buộc lòng cầm súng?
Anh không chín tháng ưu tư nặng
hiểu lòng người mẹ chăng?
Lặng lẽ giữa trong xanh
Lượt xem: 17693
20/12/2014 15:37
Nguyễn Thành Long (1929-1991)
Từng đi qua những xô bồ thật, giả
những nổi chìm đắm đuối biển phù hoa
mới có được sáng thần tiên lặng lẽ
giữa bồng bềnh mây trắng Sa-pa.
Tàu tốc hành chợt ghé
Lượt xem: 16481
20/12/2014 15:35
Nguyễn Minh Châu (1930-1989)
Thác lũ thời gian chưa xóa được
dấu chân người lính tháng năm này
tâm tư để lặn vào gan ruột
khách ở quê ra khó giãi bày.
Màu chia ly
Lượt xem: 31255
20/12/2014 15:34
Nguyễn Mỹ (1935-1971)
Anh muốn cuộc chi ly
không hề có chia ly
bằng chấp nhận cái điều không tránh khỏi:
một chia ly
bao màu đỏ
không về!
Hiển thị 501 - 510 tin trong 2295 kết quả