ii. Nhà Thục (258-207 trước TL)
1. Thần Kim quy giúp vua Thục
Thục từ dứt nước Văn-lang
Đổi tên Âu-lạc, mới sang Loa-thành.
Phong-khê là đất Vũ-ninh,
Xây thôi lại lở, công-trình biết bao
Thục-vương thành-ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang-sứ hiện vào kim-qui.
Hóa ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn-cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỉ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục-vương cảm tạ tấm lòng hiệu-linh.
Lại bàn đến sự chiến-tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ-tình quân-vương.
Dặn sau làm máy Linh-quang,
Chế ra thần-nỏ, dự phòng việc quân.
2. Trung quốc đánh Âu-Lạc
Bấy giờ gặp hội cường-Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châu-cơ muốn nặng túi tham,
Đồ-Thư, Sử-Lộc sai làm hai chi.
Lĩnh-nam mấy chốn bièn-thùy,
Quế-lâm, Tượng-quận thu về bản-chương.
Đặt ra úy, lịnh rõ-ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ-gìn.
Hai người thống-thuộc đã quen,
Long-xuyên, Nam-hải đôi bên lấn dần.
Chia nhau thủy bộ hai quân,
Tiên-du ruổi ngựa, Đông-tân đỗ thuyền.
Thục-vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa.
Bình giang rạch nửa sơn-hà
Bắc là Triệu-úy. Nam là Thục-vương.
3. Trọng Thủy và Mị-Châu
Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông-gia,
Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị-Châu
Gả cho Trọng-Thủy, con đầu Triệu-vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế-tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần.
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh-thân giả tiếng Bắc-qui.
Đinh-ninh dặn hết mọi bề thủy-chung
Rằng: " Khi đôi nước tranh-hùng,"
" Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?"
" Trùng-lai dù họa có ngày,"
" Nga-mao xin nhận dấu này thấy nhau"
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.
4. Triệu-Đà diệt Thục
Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu úy, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thần.
Vi-kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi.
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu-li,
Còn đem ái-nữ đề-huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim-qui đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục-chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái-a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn-tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm trỏn.
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ-mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?
Thư gửi Thầy Mẹ
Lượt xem: 14775
18/12/2014 15:54
Ai về làng cũ hôm nay,
Thư này đưa hộ cho thầy mẹ tôi.
Con đi mười mấy năm trời,
Một thân, một bóng, nửa đời gió sương.
Quan Trạng
Lượt xem: 16871
18/12/2014 15:53
Quan Trạng đi bốn lọng vàng,
Cờ thêu tám lá qua làng Trang Nghiêm.
Mọi người hớn hở ra xem,
Chỉ duy có một cô em chạnh buồn.
Bên hồ
Lượt xem: 31071
18/12/2014 15:52
Lá rơi theo gió bay,
Bên hồ ta đứng đắm say nhìn hồ.
Sương mai đây đó trắng mờ,
Như còn lưu luyến đôi bờ cây xanh.
Lòng nào dám tưởng
Lượt xem: 22137
18/12/2014 15:51
Mẹ em như bóng nắng về chiều
Sống được bao nhiêu biết bấy nhiêu.
Em em còn trẻ người non dạ,
Há nỡ theo anh, nỡ bỏ liều.
Quán lạnh
Lượt xem: 16193
18/12/2014 15:51
Mùa thu đến chậm như chưa đến,
Lá vội rơi theo gió vội vàng,
Sương đã dâng lên chiều đã xuống,
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang.
Đường rừng chiều
Lượt xem: 23235
18/12/2014 15:50
Lữ hành bắt gặp quán cơm,
Bầy ong bắt gặp mùi thơm hoa rừng.
Đèo cao con suối ngập ngừng,
Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều.
Đêm cuối cùng
Lượt xem: 25961
18/12/2014 15:49
Hội làng mở giữa mùa thu,
Trời cao gió cả trăng như ban ngày.
Mùa xuân xanh
Lượt xem: 23221
18/12/2014 15:49
Mùa xuân là cả một mùa xanh,
Trời ở trên cao, lá ở cành.
Lúa ở đồng tôi và lúa ở
đồng nàng và lúa ở đồng anh.
Áo anh
Lượt xem: 15487
18/12/2014 15:48
Tằm em ăn rỗi hôm nay,
Hái dâu em bận suốt ngày hôm qua.
Mong sao tằm tốt tơ già,
May đôi áo nái làm quà cho anh.
Cảm tác
Lượt xem: 20277
18/12/2014 15:47
Thơ suông, rượu nhạt, quán cơm nghèo,
Xuân xế mùa xuân, chiều xế chiều.
Chín hẹn đã sai mười: bạn quý.
Nghìn voi không được một: người yêu.
Hiển thị 1051 - 1060 tin trong 2298 kết quả