Em ơi! Buồn làm chi
	Anh đưa em về sông Đuống
	Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
	Sông Đuống trôi đi
	Một dòng lấp lánh
	Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
	
	Xanh xanh bãi mía bờ dâu
	Ngô khoai biêng biếc
	Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
	Sao xót xa như rụng bàn tay
	
	Bên kia sông Đuống
	Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
	Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
	Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
	Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
	Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
	
	Ruộng ta khô
	Nhà ta cháy
	Chó ngộ một đàn
	Lưỡi dài lê sắc máu
	
	Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
	Mẹ con đàn lợn âm dương
	Chia lìa đôi ngả
	Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
	Bây giờ tan tác về đâu ?
	
	Ai về bên kia sông Đuống
	Cho ta gửi tấm the đen
	Mấy trăm năm thấp thoáng
	mộng bình yên
	Những hội hè đình đám
	Trên núi Thiên Thai
	Trong chùa Bút Tháp
	Giữa huyện Lang Tài
	Gửi về may áo cho ai
	Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
	Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
	Những cụ già phơ phơ tóc trắng
	Những em xột xoạt quần nâu
	Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
	
	Ai về bên kia sông Đuống
	Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
	Những cô hàng xén răng đen
	Cười như mùa thu tỏa nắng
	Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
	Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
	Những nàng dệt sợi
	Đi bán lụa mầu
	Những người thợ nhuộm
	Đồng Tỉnh, Huê Cầu
	Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
	
	Bên kia sông Đuống
	Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
	Dăm miếng cau khô
	Mấy lọ phẩm hồng
	Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
	Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
	Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
	Xì xồ cướp bóc
	Tan phiên chợ nghèo
	Lá đa lác đác trước lều
	Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
	
	Chưa bán được một đồng
	Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
	Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
	Có con cò trắng bay vùn vụt
	Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
	Mẹ ta lòng đói dạ sầu
	Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
	
	Bên kia sông Đuống
	Ta có đàn con thơ
	Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
	Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
	Lấy mẹt quây tròn
	Tưởng làm tổ ấm
	Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
	Ú ớ cơn mê
	Thon thót giật mình
	Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
	
	Đã có đất này chép tội
	Chúng ta không biết nguôi hờn
	
	Đêm buông xuống dòng sông Đuống
	-- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?
	
	Hé một cánh liếp
	-- Con vào đây bốn phía tường che
	Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
	Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
	Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
	Những chuyện muôn đời không nói năng
	Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
	Bộ đội bên sông đã trở về
	Con bắt đầu xuất kích
	Trại giặc bắt đầu run trong sương
	Dao loé giữa chợ
	Gậy lùa cuối thôn
	Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
	Ăn không ngon
	Ngủ không yên
	Đứng không vững
	Chúng mày phát điên
	Quay cuồng như xéo trên đống lửa
	Mà cánh đồng ta còn chan chứa
	Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
	Gió đưa tiếng hát về gần
	Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
	Tiếng bà ru cháu buổi trưa
	Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
	"À ơi... cha con chết trận từ lâu
	Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
	Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
	Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
	"Thân ta hoen ố vì mày
	Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
	
	Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
	Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
	Cánh đồng im phăng phắc
	Để con đi giết giặc
	Lấy máu nó rửa thù này
	Lấy súng nó cầm chắc tay
	Mỗi đêm một lần mở hội
	Trong lòng con chim múa hoa cười
	Vì nắng sắp lên rồi
	Chân trời đã tỏ
	Sông Đuống cuồn cuộn trôi
	Để nó cuốn phăng ra bể
	Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
	Bao nhiêu nước mắt
	Bao nhiêu mồ hôi
	Bao nhiêu bóng tối
	Bao nhiêu nỗi đời
	
	Bao giờ về bên kia sông Đuống
	Anh lại tìm em
	Em mặc yếm thắm
	Em thắt lụa hồng
	Em đi trảy hội non sông
	Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
	
	-- Việt Bắc, tháng 4, 1948
        
        
            Khát nước
            Lượt xem: 46681
        
        
        08/01/2015 15:18
        
            Vì cớ đâu mà khát nước hoài?
Trà đâu? Ta hãy uống mà chơi!
Không Tàu thì Huế tha hồ thú,
Pha tục và tiên, đục bỏ đời.
        
    
        
        
            Sống
            Lượt xem: 47742
        
        
        08/01/2015 15:18
        
            Sống tủi làm chi đứng chật trời!
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến,
Sống chịu ngu si để chúng cười.
        
    
        
        
            Vào thành
            Lượt xem: 46666
        
        
        08/01/2015 15:17
        
            Vào thành ra cửa Ðông
Xe ngựa chạy tứ tung
Vào thành ra cửa Tây
Sa gấm rực như mây
        
    
        
        
            Chúc tết thanh niên
            Lượt xem: 59781
        
        
        08/01/2015 15:16
        
            Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?
        
    
        
        
            Ru em
            Lượt xem: 49830
        
        
        08/01/2015 15:16
        
            Ru hời, ru hỡi, ru hời
Nín di em hỡi chị ngồi chị ru
Nước ta từ dựng cơ đồ
Bốn ngàn năm lẻ địa đồ còn kia
        
    
        
        
            Tu hú đẻ nhờ
            Lượt xem: 53595
        
        
        08/01/2015 15:15
        
            Ổ mi nào phải của chi mi
Sao ổ ai mà đến chiếm đi
Chồng vợ tôi đành công chịu khó
Bố con bác chớ bợm làm lỳ
        
    
        
        
            Bài thơ tuyệt mệnh
            Lượt xem: 39627
        
        
        08/01/2015 15:14
        
            Nhất lạc phân hoàn lục thập niên
Hảo phùng kim nhật liễu trần duyên
Bình sinh kỳ khí vi hà hử?
Nguyệt tại ba tâm vân tại thiên
        
    
        
        
            Gửi phường hậu tử
            Lượt xem: 33118
        
        
        08/01/2015 15:13
        
            Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ thùy nhân bất thức quân
Bảy mươi tư tuổi trải phong trần
Nay được bạn mới tinh thần hoạt hiện
        
    
        
        
            Đôi dòng tiểu sử
            Lượt xem: 43555
        
        
        08/01/2015 15:11
        
            Phan Bội Châu sinh năm 1867 tại Ðông Liệt (Nghệ An). Cha cụ là ông Phan Văn Phổ. Cụ vốn thông minh từ lúc thiếu thời. Năm lên 6 tuổi, được cho đi học chỉ 3 ngày đã thuộc hết cuốn Tam Tự Kinh. Cụ không có ý hướng khoa cử sĩ hoạn nhưng để có điều kiện hoạt động cách mạng, mãi tới năm 1900 đã 33 tuổi cụ mới dự kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An và đỗ giải nguyên (thủ khoa). Sau đó, cụ tham gia phong trào Cần Vương và viết cuốn Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư để khích động lòng yêu nước của dân chúng.
Ngày 29 tháng 10 năm 1940, cụ mất tại kinh thành Huế.
        
    
        
        
            Chết
            Lượt xem: 107104
        
        
        08/01/2015 15:08
        
            Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu, hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc tam phân.
        
    
Hiển thị 111 - 120 tin trong 2442 kết quả