Đề Đại Than Mã phục ba miếu
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư
Cái thế công danh tại sử thư
Hướng lão đại niên căng quắc thước
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư
Ðại Than phong lãng lưu tiền liệt
Cổ miếu tùng sam cách cố lư
Nhật mộ thành tây kinh cức hạ
Dâm Ðàm di hối cánh hà như
Nguyễn Du
Dịch Nghĩa
Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than (1)
Ðục xuyên qua đường Ngũ lĩnh, bình định cõi Nam (2)
Công danh trùm đời ghi trên sử sách
Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước (3)
Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa (4)
Sóng gió Ðại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước
Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà
Chiều tà dưới đám gai gọc phía tây thành (5)
Nỗi hận ở Dâm Ðàm (6), sau cùng ra làm sao?
------------------------------------------------
(1) Ðại Than: Một ghềnh lớn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện đem quân sang nước ta đã phá thác, ghềnh để dễ đi thuyền. Cho nên những chỗ có ghềnh, thác trên các sông miền Nam Trung quốc đều có miếu thờ Mã Viện.
(2) Viêm : Nóng. Viêm bang chỉ những xứ nóng phía Nam Trung Hoa.
(3) Quắc thước : Mã Viện ngoài 60 tuổi còn xin vua đi đánh giặc. Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựa. Vua cười khen : "Ông này quắc thước lắm !" (Quắc thước tại thị ông !).
(4) Tẫn doanh dư : Thiếu Dư, em họ của Mã Viện, nói : "Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, ở quê hương trông nom mồ mả rung vườn. Cần gì vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân".
(5) Thành Tây : Mộ Mã Viện chôn ở Tây Thành.
(6) Dâm Ðàm : Tên đầm. Mã Viện đem quân đánh Hai Bà Trưng mãi không được, phải lui quân về Lãng Bạc. Trời nóng bức, hơi độc từ hồ bốc lên, diều hâu bay không được. Viện hối hận đã không nghe lời em mình.
Dịch Thơ
Đề miếu Mã phục ba ở Đại Than
Mở đường Ngũ Lĩnh đánh Viêm bang,
Công trạng ghi trong cuốn sách vàng.
Già lão khoe khoang còn có sức,
Áo cơm no đủ há cầu sang!
Ghềnh cao sóng dữ nêu oanh liệt,
Miếu cũ thông xưa cách cố hương.
Chiều dưới chân thành gai góc nọ,
Dâm Đàm hối cũ nhớ hay chăng?
Bản dịch: Nguyễn Thạch Giang
Động Hương Tích
Lượt xem: 18410
19/08/2013 08:13
Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm(2)
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hòm.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Đá ông chồng bà chồng
Lượt xem: 15943
19/08/2013 08:12
Khéo khéo bày trò tạo hoá công,
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
Đèo Ba Dọi (Đèo Ba Dội)
Lượt xem: 16731
19/08/2013 08:11
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Bánh trôi nước
Lượt xem: 12971
19/08/2013 08:09
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.(1)
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son(2)
Khóc chồng làm thuốc
Lượt xem: 15464
19/08/2013 08:08
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo(1)
Cay đắng chàng ơi vị quế chi.(2)
Miếng trầu (Mời ăn trầu)
Lượt xem: 9394
19/08/2013 08:07
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi(2)
Này của Xuân Hương mới quệt(3) rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại(4)
Đừng xanh như lá bạc như vôi!
Dỗ người đàn bà khóc chồng (Dỗ bạn khóc chồng)
Lượt xem: 18820
19/08/2013 08:06
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung(1)
Chiếc bách
Lượt xem: 23682
19/08/2013 08:05
Chiếc bách(1) buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,(2)
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.(3)
Mắng học trò dốt I
Lượt xem: 13332
19/08/2013 08:04
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ,
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
Không chồng mà chửa (Chửa hoang)
Lượt xem: 17538
19/08/2013 07:52
Cả nể cho nên hoá dở dang,
Nỗi niềm nàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,(1)
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.(2)
Hiển thị 241 - 250 tin trong 532 kết quả