Thơ

Ninh Minh giang chu hành

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên
Tự cao nhi hạ như bát thiên
Than thượng hà sở văn?
Ưng long kích nộ lôi điền điền
Than hạ hà sở kiến?
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền
Nhất tả vạn lý vô đình yên
Cao sơn giáp ngạn như tường viên
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền
Ðại giả như ốc, tiểu như quyền
Cao giả như lập, đê như miên
Trực giả như tẩu, khúc như tuyền
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn
Giao ly xuất một thành trùng uyên
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyền
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền đa sở úy
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình
Trung Hoa đạo trung phù như thị
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý
Cao tài mỗi vị văn chương đố
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ
Phong ba na đắc tận năng bình
Trung tín đáo đầu vô túc thị
Bất tín "xuất môn giai úy đồ"
Thí vọng thao thao thử giang thủy

Nguyễn Du

Dịch Nghĩa
Trong núi miền Việt Tây có nhiều khe suối
Nghìn năm hợp lại thành một sông
Như nước rót xuống từ trời cao
Trên thác nghe thấy gì ?
Rồng hiện giận dữ, sấm động ầm ầm
Máy nỏ bật mạnh, tên vút khỏi dây
Một dòng vạn dặm không ngừng
Núi cao bên bờ như bức tường
Trong có đá hình thù kỳ dị chen chúc
Như rồng, rắn, hổ, báo, trâu, ngựa la liệt trước phía trước
Lớn như nhà, nhỏ bằng nắm tay
Cao như đứng, thấp như ngủ
Thẳng như chạy, cong như xoay vòng
Muôn hình vạn trạng khó nói hết
Thuồng luồng, ly long ra vào thành vực thẳm
Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ĩ
Lụt mùa hè vừa dâng nước sôi sục
Ði một mạch ba ngày, lòng chơi vơi
Lòng chơi vơi vì sợ hãi
Thiệt là nguy hiểm chìm sâu không đáy
Mọi người đều nói đường đi Trung Hoa bằng phẳng
Ðường Trung Hoa như thế này ư !
Sâu hiểm quanh co như lòng người
Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời
Tài cao thường bị văn chương ganh ghét
Thịt người là thứ ma quỷ thích nhất
Sóng gió làm sao yên cho hết
Giữ trung tín rốt cuc không đủ cậy nhờ (1)
Ai không tin rằng "ra ngoài cửa mọi đường đều đáng sợ"
Thì hãy thử nhìn nước sông cuồn cuộn đó
-------------------------------------------
Ninh Minh Giang : Tức Minh Giang, khi chảy qua huyện Ninh Minh thì gọi là Ninh Minh giang.

(1) Lấy tích Đường Giới, người thời Tống, tính tình cương trực, phải biếm đi nơi hẻo lánh. Khi thuyền qua sông Hoài, sóng to gió lớn. Ông ngồi ngay ngắn đọc câu thơ:

Bình sinh thượng trung tín
Kim nhật nhiệm phong ba!
(Ngày thường giữ lòng trung tín,
Bây giờ (thì) mặc sóng gió!)

Nhà thơ dùng điển này, nhưng với ý ngược lại: mình giữ lòng trung tín nhưng gặp hiểm nguy vẫn không tin cậy được.

Dịch Thơ
Đi thuyền trên sông Ninh Minh

Núi Việt Tây có nhiều khe suối
Bao nhiêu năm tụ hội thành sông
Trời cao đổ xuống đùng đùng
Từ trên thác tựa như rồng nổi cơn
Nghe như thể ầm ầm sấm nổ
Vuột khỏi dây tên nỏ bật tung
Một dòng vạn dặm không ngừng
Bên bờ núi dựng như tường chênh vênh
Ở trong nước đá hình quái lạ
Như rắn, rồng, hổ, báo, trâu, ngựa liệt la
Nhỏ tay nắm, lớn như nhà
Cao như đứng, thấp như là ngủ say
Cong như xoay, thẳng như đuổi chạy
Muôn vẻ kỳ nói mấy cho vừa
Thuồng luồng vực thẳm ghê chưa
Ngày đêm ầm ĩ sóng đùa bọt phun
Lụt mùa hè nước dâng sôi sục
Ði ba ngày một mạch, chơi vơi
Chơi vơi vì sợ ai ơi
Nước sâu không đáy đi đời nhà ma
Mọi người nói Trung Hoa bằng phẳng
Ðường Trung Hoa thật chẳng ai ngờ
Như lòng người lắm quanh co
Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời
Văn chương đời tài cao hay ghét
Thịt người ma quỷ thích vô cùng
Làm sao yên lặng bão bùng
Giữ trung tín mấy cũng không đủ nhờ
Không tin "ra cửa, nguy cơ"
Nhìn sông cuồn cuộn đó ngờ nữa thôi!

Bản dịch:Quách Tấn

Các tác phẩm khác

Truyện Kiều 1401-1450 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 17314
22/08/2013 10:07
1401 “Lượng trên quyết chẳng thương tình,
1402 “Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”
1403 Thấy lời sắt đá tri tri,
1404 Sốt gan, ông mới cáo quì cửa công.

Truyện Kiều 1451-1500 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 16466
22/08/2013 10:04
1451 Cười rằng: “Đã thế thì nên,
1452 “Mộc già hãy thử một thiên, trình nghề.”
1453 Nàng vâng cất bút tay đề,
1454 Tiên hoa trình trước án phê, xem tường.

Truyện Kiều 1501-1550 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 15481
22/08/2013 10:03
1501 Sông Tần một dải xanh xanh,
1502 Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương-quan.
1503 Cầm tay dài ngắn thở than,
1504 Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.

Truyện Kiều 1551-1600 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 15087
22/08/2013 10:02
1551 “Làm cho trông thấy nhãn tiền.
1552 “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”
1553 Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
1554 Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

Truyện Kiều 1601-1650 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 15269
22/08/2013 10:01
1601 Được lời như cởi tấc son,
1602 Vó câu thẳng ruổi, nước non quê người.
1603 Long lanh đáy nước in trời,
1604 Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

Truyện Kiều 1651-1700 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 14782
22/08/2013 10:00
1651 Tôi đòi phách lạc, hồn bay,
1652 Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình.
1653 Thúc ông nhà cũng gần quanh,
1654 Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời.

Truyện Kiều 1701-1750 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 15459
21/08/2013 22:37
1701 Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
1702 Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703 Tiếc hoa, những ngậm ngùi xuân,
1704 Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!

Truyện Kiều 1751-1800 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 10235
21/08/2013 22:32
1751 Dạy rằng: “May rủi đã đành,
1752 “Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
1753 “Cũng là oan nghiệp chi đây,
1754 “Sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng.

Truyện Kiều 1801-1850 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 13725
21/08/2013 22:31
1801 Tiểu thư đón cửa giã giề,
1802 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803 Nhà hương cao cuốn bức là,
1804 Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mừng.

Truyện Kiều 1851-1900 (tác phẩm có 3254 hàng) Lượt xem: 15300
21/08/2013 22:29
1851 Nàng đà tán hoán, tê mê,
1852 Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:
1853 Bốn dây như khóc, như than,
1854 Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!

Hiển thị 41 - 50 tin trong 533 kết quả