nguồn : http://vi.wikipedia.org
xem thêm : tác phẩm
Bà Huyện Thanh Quan (chữ Hán: 婆縣清觀, 1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh; là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam[1].
Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội[2]. Thân phụ là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông.
Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), và là vợ Lưu Nghị[3](1804-1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mệnh thứ 2), từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Chồng bà làm quan trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).
Dưới thời vua Minh Mạng[4], bà được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi.
Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn bốn con [5] về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.
Không biết rõ chính xác về thời gian sống của bà nhưng theo nhiều tư liệu ghi chú là bà sinh năm 1805 và mất năm 1848 ở tuổi 43. Mộ bà được đặt bên bờ Hồ Tây (Hà Nội), nhưng sau này sóng gió đã làm sạt lở không còn tăm tích [6].
Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật. Hiện gồm những bài sau:
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì 4 bài đầu là hoàn toàn chính xác của bà bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật [7].
Trích ý kiến của:
Có rất nhiều giai thoại được kể về Bà:
Giữa thế kỷ 19, ở Nghi Tàm nổ ra cuộc đấu tranh chống lệ nộp chim sâm cầm, một đặc sản của vùng này, và người dân làm đơn thưa việc xách nhiễu của quan trên, sau đó vua Tự Đức xét đơn đã tha lệnh cống cho vùng.[12] Theo Ngọc phả (ghi nhận công đức của những người có công với dân làng), thì chính Bà Huyện Thanh Quan đã thảo đơn cho dân gửi lên vua, nhưng vì phục tài đức của bà nên quan huyện Hoàn Long đã ỉm đi, dù có lệnh của quan trên, mà không bắt tội và truy xét [13].
Thời điểm xảy ra việc này, có nơi ghi là năm 1870,[12] có nơi ghi chép là lệ cống chim sâm cầm có từ năm Tự Đức thứ 17 (1857), và đến năm Tự Đức thứ 24 mới được bãi bỏ.[14] Tuy nhiên, nếu theo các thời điểm đó thì giai thoại này không hợp lý, vì bà Huyện đã mất năm 1848, trước đó rất lâu.
Lúc ông huyện Thanh Quan (Lưu Nghi) đi vắng, có một cô gái tên là Nguyễn Thị Đào đã đệ đơn lên trình bày rằng chồng cô đã ruồng bỏ cô để xin được ly dị, lấy chồng khác. Vì thương cảm, Bà Huyện Thanh Quan đã thay chồng phê đơn cho phép ly hôn bằng mấy câu thơ:
Hay chuyện, chồng cô Đào kiện quan trên. Quan trên ăn của đút, giáng chức ông huyện Thanh Quan.[15]
Có một ông đỗ hương cống tới xin mổ trâu để giỗ cha. Lúc bấy giờ, triều đình đã ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Cảm động trước hiếu hạnh của ông này mà chồng thì đi vắng, Bà Huyện Thanh Quan đã cầm bút phê vào đơn câu thơ:
Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm mình, nhưng vì được việc nên ông cũng vui vẻ ra về.[16]
Ngoài ra, trong sách Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam của Thu Hằng còn có thêm vài cuộc đối đáp, đàm luận thi phú giữa bà với vua Minh Mạng.
Tình muộn
Lượt xem: 21199
19/12/2014 15:20
Tác giả: Tiền Giang
Ngần tuổi này, anh lại thấy tình yêu!
Một tình yêu vô cùng tinh khiết!
Hoa tình yêu với muôn ngàn vẻ đẹp!
Không là gì, bỗng chốc hoá đam mê!!
Vin cành hoa trắng
Lượt xem: 20944
19/12/2014 15:14
Tác giả: Mặc Giang
Nhìn ai đó, đang cài bông hoa trắng
Tôi biết rồi, anh trắng cả thiên thu
Còn chị và em, trắng cả mịt mù
Cha Mẹ mất rồi, còn gì mà nói
Vườn tâm sự
Lượt xem: 36133
19/12/2014 15:12
Tác giả: Vũ Hoàng Chương
Một dĩ vãng tràn thơ và đẫm lệ
Những u hoài chôn kín tận thâm tâm
Anh dùng dằng mãi chiều nay mới kể
Mặc dầu em thúc giục đã bao năm
Điệp Cốc y tiên
Lượt xem: 13676
19/12/2014 15:11
Tác giả: Dương Lam [vophubong]
ĐIỆP CỐC Y TIÊN...(1)
Xưa nay đã có những người hiền,
Mạng số trời sinh được hữu duyên?
Vào động tìm hoa hương phảng phất,
Lên non hàng cọp sức dư bền.
Lời thơ từ đáy mộ
Lượt xem: 17806
19/12/2014 15:09
Tác giả: Trần Văn Lương
Kính dâng hương linh chị PC
(Cuối cùng em cũng đã làm tròn được lời hứa với lòng mình lúc đứng cạnh giường bệnh của chị ở New York vào một ngày tưởng chừng đà xa lắm.
Hy vọng trong một kiếp nào đó, những dòng thơ cuối đời chưa kịp đọc của chị sẽ đến được tay người ấy)
Tiếng ru ba miền
Lượt xem: 21878
19/12/2014 15:07
Tác giả: Kiên Giang
Tiếng mẹ ngân nga triều nước lớn
Điệu vành khuyên, âm hưởng tiếng chim oanh
Mây không đuổi cánh cò bay mỏi gió
Đất miệt vườn mở rộng chân trời xanh
Hoa tạng trầm tư
Lượt xem: 20366
19/12/2014 15:06
Tác giả: Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Gửi một người đã rũ bỏ bụi trần ai
Mặt trời đã lặn từ lâu nhưng trăng chưa mọc
Bầu trời thăm thẳm chỉ có những vì sao lấp lánh
Một thoáng bâng khuâng với thơ Du Tử Lê
Lượt xem: 18301
19/12/2014 15:01
Tác giả: Trần Cao Tường (Lm)
Một Thoáng Bâng Khuâng Với Thơ Du Tử Lê
Ai mà chẳng có những lúc bâng khuâng lần đầu tiên nghe mà cảm được tiếng chim hót hay nhìn với vẻ ngất ngây những lớp sóng biển đuổi nhau tạt nước reo vui. Những phút giây này đến thật bất ngờ, rất giản đơn, tinh ròng.
Tâm tình hiến dâng (41 - 85)
Lượt xem: 12971
19/12/2014 14:41
Tác giả: Đỗ Khánh Hoan & Rabindranath Tagore
Tôi khao khát nói lời tâm tình thầm kín nhất, những lời tôi phải nói với em, song còn ngần ngại vì sợ em sẽ bật cười chế nhạo mất thôi.
Đó là lý do tôi tự giễu mình, đem những bí ẩn riêng tư ra đùa đùa cợt cợt.
Tâm tình hiến dâng (1 - 40)
Lượt xem: 13448
19/12/2014 08:11
Tác giả: Đỗ Khánh Hoan & Rabindranath Tagore
Tôi bộc. Xin Hoàng hậu đoái thương tên tôi bộc của Người!
Hoàng hậu. Dạ yến tan rồi, tôi bộc của ta về hết. Sao ngươi lại tới lúc đêm hôm khuya khoắt này?
Tôi bộc. Khi những người khác đã ra về, đó mới là lúc tôi đến với Người. Tôi đến để cầu xin, cầu xin làm những gì còn sót lại dành cho tên tôi bộc cuối cùng.
Hoàng hậu. Ngươi còn cầu mong gì khi đêm đã khuya?
Hiển thị 761 - 770 tin trong 2166 kết quả